Sơ nét về Cao Xuân Huy

Tên thật Cao Xuân Huy sinh ngày 14 tháng bảy năm 1947 tại Bắc Ninh, quê nội Bắc Ninh, quê ngoại Hà Nam, Bắc Việt
Theo mẹ di cư vào Nam tháng 10 1954
Tháng hai, năm 1968, nhập ngũ, vào binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến,Việt Nam Cộng Hòa.
 - Tháng ba 1975 bị bắt, đi tù
-  Tháng chín 1979 được thả.
-  Tháng mười hai 1982 vượt biển.
- Tháng mười 1983 đến Hoa Kỳ.
- Từ tháng mười một 1989 đến tháng sáu 1992 làm Tổng thư ký tạp chí Văn Học.
- Từ tháng tư 1993 đến tháng mười 1994 lại làm Tổng thư ký tạp chí Văn Học.
- Từ tháng chín 2004 đến tháng hai 2008 làm Chủ biên tạp chí Văn Học.

Trăng Nhú Giữa Chiều

Hồ Đình Nghiêm

Đò trôi êm trên Thảo Giang. Những cành liễu quanh bờ ma mị thế vòng tay ôm, thu cất bao trầm mặc của nơi vốn thiếu bóng ngựa xe. Màu rêu thẩm xanh cùng lớp sương khói dâng lên, tiếng chim quạnh rớt và mặt nước gợn sóng dường đánh thức bình minh. Mặt trời dần nhú, đủ chiếu tỏ năm mạng người quá giang. Lố nhố đứng ngồi khi mũi đò vén mở đám lau sậy, xào xạc. Thân hơi xiêu đổ lúc nhìn ra bến bờ chợt hiện. Gã lái đò chống một đoạn tre, cắm vào đất mềm, tựa người vào cốt giữ cho đò thôi chòng chành. Gã thuộc hạng khó lân cận, lầm lì trong việc đưa người sang sông, tuyệt chẳng hé môi dù nửa lời.
Thảo Giang nào lớn rộng, sông nước mênh mông là bởi sự vắng tẻ tác thành ra. Ở chốn hoang dã không gian thường ẩn giấu đôi điều, một nửa của rợn cảm và nửa kia là hoang mang nghi ngại khi phát hiện. Ngồi vào lòng đò quá giang khách sang sông nhận ra phận người thật nhỏ bé. Lên được tới bờ lại choáng trước sạn đạo quanh co. Chỉ một lối đi, chận bít tầm nhìn là dáng đứng đồ sộ của toà nhà có lối kiến trúc kỳ lạ. Không hẳn là lâu đài, chẳng ra một cổ thành, hoặc nó gộp lại mọi thứ để dựng nên hình khối trông thâm u, kín cổng cao tường. Từ đây trông lui, con sông đã xoá mờ hình tích, biến thành một đường cắt chia, sắt sảo tựa thanh kiếm bén. Ẩm thấp, mát lạnh từ hướng ấy dồn thổi về, ngắt quãng theo chân đi ơ hờ của gió.
Có hai nam nhân lực lưỡng đứng vòng tay án giữa lối đi, mặt chẳng lộ thiện cảm. Một trong hai đứa cất tiếng: Theo nội quy, chúng tôi buộc phải khám xét hành trang của quý vị, bất luận người ấy là ai, xưa nay chưa hề đổi thay thủ tục. Những gì dính dáng tới kim loại đều bị thâu giữ, không hoàn trả. Năm lữ hành tự động sắp hàng một, tự động mở phơi hành lý lỏng lẻo chứa toàn tư trang đợi bàn tay kẻ lạ sờ nắn lục lạo. Bốn êm thắm cho đi chỉ đôi co lời qua tiếng lại với đứa sau cùng. Khách nhàn du phân trần:

Bàn Về Khúc Ngâm Người Tiết Phụ Đời Đường

Võ Kỳ Điền

Tôi nhớ có lần thi sĩ Borges xứ Argentina, Nam Bán Cầu viết câu thơ hay :-”Tôi sanh ra ở xứ lạnh, để sưởi ấm đôi bàn tay, nên tôi làm thơ”. Tứ thơ đẹp lung linh khiến người đọc giật mình nên tôi mạo muội bắt chước ý nghĩ đó -mình cũng hiện ở xứ lạnh nè, ngó qua ngó lại thì sự nghiệp công danh không có gì hết, trơ trọi một thân già, những khi trời đông lạnh, tuyết bay phơi phới trắng xóa đầy trời, thì tại sao không mượn câu thơ để gầy lò sưởi ấm. Và hôm nay tôi mượn bài Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch, một thi sĩ nổi tiếng thời Trung Đường, vì bài nầy cứ mỗi lần đọc là mỗi lần thấy thú vị, thâm trầm.
Tiết Phụ Ngâm Trương Tịch (766-827 đời Đường)
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu,
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt
Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử
Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Cỏ Mềm Lãng Đãng

Song Thao

Con nhỏ trông kháu khỉnh tệ. Chỉ nguyên đôi mắt đã đáng đồng tiền bát gạo rồi. Loại mắt lớn, đen nháy, làm sáng trưng cả khuôn mặt. Ngày nào như ngày nấy, con nhỏ ngồi bệt xuống sàn gạch, lưng dựa vào cánh cửa tủ, cuốn sách mở trên hai đầu gối co lên trong một thế ngồi khúm núm tội nghiệp. Khi Nghiệp đi ngang qua mặt, con nhỏ khẽ ngẩng đầu lên, mớ tóc đen ngang vai óng mượt xô đẩy nhau, đôi mắt ngước cao nhìn Nghiệp như vỡ ra ngàn tiếng reo vui
Năm học mới bắt đầu, Nghiệp lại ngày ngày ôm cặp đi dạy. Những ngày hè cố níu kéo giờ đã tan ra nhập vào mảng thời gian đã mất. Dư vị của những buổi rong chơi với nắng ấm làm bước chân anh nặng nề trên hỉnh lang dẫn tới lớp học. Hai bên tường những dãy tủ xám xanh dành cho học sinh chạy ngút ngàn trông buồn nản như những cánh cửa nhỉ tù. Nghiệp chưa bao giờ thấy thoải mái thanh thản trên dãy hỉnh lang này. Đám nam sinh chạy nhảy, đấm đá, la hét ồn ào nhộn nhịp nhức đầu nhức óc. Các nữ sinh mồm miệng tía lia, chân tay múa may lao xao như những con rối. Một vài cặp ghì nhau dựa vào cửa tủ ôm hôn tỉnh bơ như chốn không người. Chỉ có con nhỏ kháu khỉnh ngồi lặng thinh làm Nghiệp thấy thú vị. Nghiệp không biết con nhỏ học lớp nào. Anh chưa nghĩ ra cách nào để biết thêm về con nhỏ dễ thương này. Nếu ở Việt Nam thì quá dễ. Hỏi dò vài đứa học trò hoặc đánh tiếng với vài đồng nghiệp thân là ra ngay. Ở đây tự do của con người được đưa lên bàn thờ cao ngất nên thật là lố bịch khi muốn hỏi dò về đời tư của người khác dù đó chỉ là con nhỏ học trò đáng tuổi con anh. Xứ sở gì mà lạ. Tương quan xã hội được bao trùm trong cái vỏ đậm đặc dục tính. Anh nhớ hồi còn đi học mấy thằng bạn thân dắt tay nhau rong chơi phố phường tự nhiên như không. Vậy mà ở đây hai người đồng phái nắm tay nhau ngoài đường phố là nhận được ngay những ánh mắt nghi ngờ của người qua đường. Ánh mắt nào cũng mang lời kết án "bệnh hoạn" nằm phơi ra không cần dấu diếm. Hình như con ma sex đã len lỏi vào từng mạch máu li ti trong óc não mọi người. Bây giờ mà anh ra miệng hỏi thăm về con nhỏ học trò này thì hậu quả chẳng biết tới đâu.

Sơ nét về Chân Phương

Tên thật là Phương Kiến Khánh, sinh năm 1951 tại Nam Vang, Cambốt.
Về Việt Nam 1970, học tại  Đại học Văn khoa Sài gòn
Sang Mỹ học tại Lesley University, Cambridge – USA
Sống và dạy học ở Boston, Massachusetts, U.S.A.
Thơ, truyện ngắn, biên khảo văn học, dịch thuật đăng trên Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Việt, Diễn Đàn (Paris,) VietNam Forum (Đại học Yale,) Illuminations (Đại học Charleston,)
Đã in:
- Chú Thích Cho Những Ngày Câm Nín (1989, tái bản 2010,)
- Bản Án Cho Các Vĩ Cầm (1992,)
- Nghĩa Đen (1993,)

Chiến Tranh, Như Một Thi Pháp

 Nguyễn Hưng Quốc

Ðã có vô số người viết về chiến tranh Việt Nam. Hầu hết đều tập trung nhìn từ góc độ lịch sử và chính trị. Từ góc độ lịch sử, người ta xem chiến tranh như một cái gì đã kết thúc, ở đó, người ta đã biết rõ ai thắng ai bại; vấn đề chỉ còn là tìm hiểu nguyên nhân, mức độ và ý nghĩa của những sự thắng bại đó mà thôi. Từ góc độ chính trị, người ta nhìn chiến tranh Việt Nam như một cái gì đang tiếp diễn, ở thì hiện tại, ở đó, họ vẫn là chiến sĩ, đứng hẳn trong một chiến tuyến nhất định, lòng sôi sục thù hận, như cái thời trước 1975, với ngòi bút (hay bàn phím computer) trong tay, cứ nhắm thẳng quân thù mà... chửi.
Tiếc, cho đến nay, rất hiếm người nhìn chiến tranh Việt Nam từ góc độ văn hoá. Mà, theo tôi, đó mới chính là góc nhìn cần thiết và thú vị nhất, từ đó, chúng ta có thể thấy được ít nhất hai khía cạnh quan trọng của chiến tranh: một, những động lực âm thầm đằng sau các quyết định và các cách ứng xử trong chiến tranh; và hai, vô số các cuộc chiến tranh khác về cuộc chiến tranh đã kết thúc ấy: những cuộc chiến tranh trên sách báo, phim ảnh, đủ loại phương tiện truyền thông và, quan trọng hơn cả, trong chính tâm hồn những người từng tham dự, một cách trực tiếp hay gián tiếp, vào cuộc chiến tranh ấy. Khía cạnh thứ nhất chính là văn hoá chiến tranh trong khi khía cạnh thứ hai là văn hoá hậu chiến.
Trong văn hoá chiến tranh, có ba điều, theo tôi, đáng kể nhất: chủ trương phi-nhân hoá kẻ thù, mỹ học về bạo động và đạo đức học về sự phá hoại.

Nghi Vấn Về Một Bài Thơ

Nguyễn Mạnh Trinh 

Có một bài thơ nổi tiếng của một nhà thơ Mễ Tây Cơ đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1990. Octavio Paz (1914-1998) và bài thơ ”Between what I see and what I say”. Trong bài diễn văn kỷ niệm 70 năm ngày sinh của ông, nhan đề “Xa xôi hơn những ngày tháng, gần gũi hơn những tuổi tên”, là một bài viết thật nhiều cá tính riêng biệt với một phong cách suy tư sâu sắc ông viết:
“…Con người là một con vật chính trị và cũng là một con vật triết học. Bởi vậy con người cũng là một con vật thi ca, một ẩn dụ mênh mang bàng bạc. Tưởng tượng đã tạo thành những nhịp cầu bắc giữa hành động và ngưỡng mộ quan sát. Trong sự tưởng tượng ấy, cái ”nhìn” cũng như cái ”làm” được khai triển. Nhờ óc tưởng tượng, con người phóng ra những hình ảnh bản thân mình và hình ảnh thế giới, chiêm ngưỡng và tự nhìn ngắm chính mình, một hình ảnh con người được chuyển hóa, trong cảm giác của cơn khát được thể hiện. Tưởng tượng đã mời gọi chúng ta ”làm” cái mà chúng ta đã “nhìn” để hình tượng chính chúng ta. Những thời điểm sáng tạo của lịch sử đều là giây phút mà hình ảnh mơ mộng được liên tưởng và cảm nhận để hạ xuống thấp mặt đất. Chính ở sự biến hóa thành hành động nên chất sống có phong vị nồng nàn hơn.
Ngay từ khi còn trẻ tôi đã cảm nhận, như cùng biết bao người chung tuổi tác, cái tiếng gọi chia đôi bên này bên kia giữa hành động và sự quan sát để chiêm ngưỡng. Trong thế giới hiện đại nhập chung cả hai cảm giác làm một thật là khó khăn: không gian và các thiên thể hiện hữu của nó không còn là khuôn mẫu của xã hôi loài người nữa. Chúng ta là một địa cầu lang thang trong một vũ trụ cũng lang thang. Tuy nhiên tôi đã mau chóng tìm thấy được nhịp cầu nối liền hai cảm giác của hành động và quan sát để chiêm ngưỡng:...”

Sông Hàn

Luân Hoán


sông thở theo cùng nhịp gió bay
ta ngồi nghiêng má ngóng đông tây
nắng trầm hương khói hồn dĩ vãng
thương nhớ lênh đênh mặt nước đầy

thoảng vọng bên đời vang tiếng gươm
lời nguyền son sắt Nguyễn Tri Phương
gió lặng Sơn Trà tâm vẫn bão
không mưa mà lệ ngấm đêm sương

Điên


Chân dung do Bùi Giáng tự họa, 
hiện đang được họa sĩ 
Phạm Cung lưu giữ
Song Thao

Năm 1990, nhóm Việt Thường ở Montreal có xuất bản một cuốn thơ của Bùi Giáng gồm những bài chưa được phổ biến trước đây. Hình bìa là tranh chân dung Bùi Giáng do họa sĩ Đinh Cường vẽ, mang tên “Đôi Mắt Bùi Giáng”. Nhìn vào đôi mắt như tóe lửa của chàng thi sĩ được nói tới nhiều nhất, tôi thấy rờn rợn. Tôi tìm hình chụp của Bùi Giáng và tóm được một tấm hình có đôi mắt dữ dội như trong tranh vẽ. Đôi mắt của người điên!
Nhưng Bùi Giáng có điên không? Trong bài “Thay Lời Tựa” của cuốn sách, nhóm Việt Thường có nhắc tới hai giai thoại về Bùi Giáng. Sau 1975, ông đi qua chợ vỉa hè bán phụ tùng xe đạp ở cuối đường Trương Minh Ký, nhào vào lấy một cái ghi-đông xe và bỏ đi. Bà bán hàng chạy theo la thất thanh nhờ thiên hạ bắt giùm “thằng ăn cắp”. Ông nhẩn nha quay trả lại cái ghi-đông vào chỗ cũ và từ tốn phân bua:  “Bà con coi! Mất cả nước không ai la, mất có cái ghi-đông xe mà la um sùm!”. Một giai thoại khác. Ông đang đi trên đường, thấy một phụ nữ Nga, vội chạy tới bóp vú bà này. Bà la choi chói, ông lầm bầm với người chung quanh: “Tao chỉ muốn thử xem cặp vú của nó có thể nuôi hết con dân Việt Nam không?”.
Hai hành động này có phải của người điên không? Điên chi mà khôn rứa! Hai giai thoại khác xảy ra trước năm 1975, do nhà văn Cung Tích Biền kể, lại làm chúng ta nghĩ ngợi. Vào đầu thập niên 60, Bùi Giáng dạy Việt văn tại một trường trung học ở tỉnh lỵ. Bữa giảng về Truyện Kiều, lúc nàng Kiều phải lưu lạc, ông òa khóc rồi nhảy qua cửa sổ của lớp, chạy thẳng ra bến xe, bắt xe đò về Sài Gòn. Báo hại học sinh ngồi chờ trong lớp, tưởng thầy sẽ quay lại vì sách vở, bao thuốc lá của thầy vẫn còn trên bàn. Được hỏi lý do, Bùi Giáng ngận ngùi nói: “Làm sao mà trở lại nơi em Kiều đã một lần hy sinh cho cái trò nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn!”.

Tuân

Song Thao

Tuân Nguyễn
Tuân Nguyễn
Mỗi khi Valentine tới, tôi thường lặng lẽời khi nhìn thấy những trái tim mang đủ sắc đỏ lung linh khắp nơi. Tình yêu lúc nào cũng có bộ mặt đỏ ké vậy sao? Cười thầm nhưng tôi lại muốn viết chút gì đó vào ngày lễ mà tất cả bàn dân thiên hạ đua nhau yêu. Năm nay cũng vậy, viết tí chút về chuyện tình cho vui, tôi nghĩ vậy và chọn vài chuyện tình để viết chơi. Chn được một vài chuyện khá hấp dẫn, tôi định viết. Nhưng tình cờ tôi vào đọc trên internet một bài viết của nhà văn Tưởng Năng Tiến viết vào năm 2010 về một người mang tên Tuân Nguyễn, tôi bỗng thấy những chuyện tình tôi đã chọn chẳng ra sao cả. Chuyện tình của Tuân Nguyễn mới…ra sao!
Tuân Nguyễn thì tôi biết, khá quen thuộc, nhưng chỉ biết bề ngoài. Bề ngoài anh chàng này thì chán chết. Anh gầy yếu đến không thể gầy yếu hơn được, cặp kính cận dày cộm uể oải rớt xuống tới chóp mũi, quần áo xốc xếch hình như anh mc cho có, dáng đi lanh chanh lúc nào cũng như vội vàng, giọng nói lắp bắp. Cái gầy của Tuân Nguyễn không phải loại gầy khơi khơi mà có tên đàng hoàng. Anh bị chứng giun móc ankylostome. Anh không phiền hà chi những con ký sinh trùng ăn bám vào anh. Anh thường khoe là bao giờ anh cũng cố gắng ăn nhiều để còn “chia phần” cho bọn ankylostome ấy, nếu không, chúng nó sẽ ăn vào thịt anh!

Đốt

Song Thao
 
Những ngày cuối tháng 5 của 43 năm trước, là mùa sách nạn của dân chúng miền Nam. Cộng sản vừa cướp được Sài Gòn đã vội ra lệnh tịch thu tất cả sách báo miền Nam mà họ gọi là “văn hóa đồi trụy và phản động”. Họ huy động từng đoàn thanh niên học sinh, mang xe ba gác đi từng nhà lục soát sách mang đi đốt giữa những bộ mặt hốt hoảng, bất lực pha lẫn ngậm ngùi của chúng ta. Một bài báo của một tác giả vô danh tôi lượm được trên internet truy niệm cho những cuốn sách vô tội bị hỏa thiêu: Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó 6 ,7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở”.
Hâu như toàn thể nhân loại văn minh coi việc đốt sách vở là một hành động man rợ. Vậy mà cuộc phần thư ác ôn này được cả hệ thống tuyên truyền của nhà nước nhảy xổ vào đành phèng la cổ võ. Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 25/5/1975 tường thuật sự việc: “Ngày 23/5/1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hóa ngoại lai đồi trụy mất gốc phản động.

SONG THAO, người bạn văn, biết sớm, gặp muộn

Luân Hoán

Để chuẩn bị di cư qua Montréal Québec Canada, năm 1984, gia đình tôi rời thành phố Đà Nẵng, vào tạm trú tại nhà người chị cả tôi, ở số 22 Lê Lợi, quận 1 Sài Gòn. Trong những ngày ngồi không chờ lên đường, tôi có ba lần tình cờ gặp mặt nhà văn Song Thao.
Lần thứ nhất. Trong đám người xô bồ Hoa, Việt, lóng ngóng tại cơ quan lo việc xuất cảnh, 1B Duy Tân, không hiểu sao, tôi đặc biệt chú ý đến một người đàn ông trạc tuổi tôi. Anh gọn gàng tươm tất, so với cái lè phè của tôi, càng nổi bật vẻ lịch sự, trang nhã của anh.
Lần thứ hai. Giữa lúc chen chúc trong hành lang của một biệt thự lộng lẫy, tại góc ngã tư Tú Xương, Trần Quý Cáp, để chờ được phái đoàn Sở Di Trú Canada phỏng vấn. Tôi chợt bắt gặp lại khuôn mặt ông chững chạc lần trước. Vẫn trang phục bảnh bao, anh đến cùng vợ và bốn con. Chúng tôi nhìn nhau, lạnh lùng, không một nụ cười xã giao. Cái hồi hộp, lo sợ lạ lùng của đám người chờ được phỏng vấn hôm đó, đã tạo ra một khung cảnh nghiêm trang đặc biệt. Gia đình nào cũng tỏ vẻ trầm lặng. Có lẽ vì cái không khí này, tôi đã bỏ ý định gặp anh để tìm thêm một vài kinh nghiệm cần thiết trước khi vào gặp giới hữu trách. Sau này, tôi được biết, lúc đó anh cũng có chú ý đến gia đình tôi và chị Song Thao, loáng thoáng nghe giọng nói của tôi, đã sớm đặt cho tôi một cái tên khá ngộ : " Cái ông Đà Nẵng ". Chúng tôi ra mắt phái đoàn Canada ở hai phòng khác nhau, và lặng lẽ ra về.
Lần thứ ba. Nắm được giấy đăng ký chuyến bay trong tay, từ 1 B Duy Tân, tôi vội vã ra về thì đụng đầu Song Thao ngay cổng vào. Anh cùng đi với một người đàn ông khác. Họ chặn tôi lại, tỏ ý muốn xem mặt mũi những mẫu giấy tờ tôi vừa được cấp phát. Tôi nôn nóng chìa cho Song Thao đọc lướt qua, rồi bỏ đi liền, không chào. Và anh, hình như cũng quên cảm ơn.