Buổi Người

Phan Ni Tấn

Cái năm tôi đi ngược Dọc Đường Số 1 (*)
Những trận mưa làm đất mốc lên buồn
Có tiếng súng lùng bùng trong họng súng
Có biến kinh chóp chép miệng người luôn

Dấu Binh Lửa (*) làm non sông xạm mặt
Mũi lưỡi lê hộc máu chảy tanh nồng
Người ngả xuống trên đèo cao dốc thẳm
Thiếu phụ cười giọt lệ nuốt vào trong

Bài Ca Cũ Đã Năm Nào

Phan Ni Tấn

nửa đêm khuya khoắc trời mưa bất cẩn
tạt trúng hồn anh những giọt xanh xao
núp gió anh ngồi lọt trong thơ thẩn
nói lại bài ca cũ đã năm nào

nói chơi cho vui giữa dòng xao động
có anh ngồi ngoài đất nước hoài mong
kể nghe từ buồn đi ra trào lộng
thây kệ nỗi đời sắc sắc không không

Bài thơ 4000


Phan Ni Tấn 

tặng Phạm Ngọc Dung và con tàu Trường Xuân

Tôi có nghe lịch sử kể về một con tàu
Con tàu ấy đã ra khơi chở theo 4000 tiếng khóc
Biển mở cửa xẻ thành một vết thương rỉ máu dẫn 4000 băng qua biển động
Hàng trang là nhân sinh với hai bàn tay trắng mắt trắng hơi thở trắng
Mất trắng

Con tàu ấy đã ra khơi
Tiếng máy cũ vẫn còn sức kéo
Kéo 4000 lìa xa đất mẹ
Mẹ đứng trên bờ, bờ như mất cảng
Báo con sông cuối tháng này sóng sẽ động mạnh

Con Tàu Chở Đất Nước Tôi

Phan Ni Tấn

Con tàu chở đất ra khỏi nước
Lá mục khóc buồn cạnh bờ sông
Nhiều đêm nằm vắt ngang nỗi nhớ
Vẫn thấy người đi vớt biển Đông

Con tàu chở nước ra khỏi đất
Nghe buồn như tiếng máu chảy khô
Đời biết bao lần thôi lỗi hẹn
Giọt lệ trào ra nuốt ngược vô

Con tàu chở gió xa bờ cát
Thổi giọt trời mưa ướt bóng người
Chèo chưa qua hết thời của biển
Đã nghe hốc mắt ứa ngậm ngùi

Ẩn Giữa Trời Xanh

Phan Ni Tấn

Buổi sáng thức dậy
Nghe người gọi đò đưa xuống phố
Tiếng gọi đò đưa làm ướt đẫm hồn tôi

Ai người buôn tràm ra chợ sớm
Xin nhắn giùm tôi đệ ở thành
Mai mốt có về sơn cốc cũ
Nói thầy tôi ẩn giữa trời xanh

Đường vô chỗ tôi qua nhiều chuyến
Chuyến đò chuyến bắc chuyến gian nan
Trăm phương ai biết phương nào đến
Chỗ tôi ẩn giữa nước mây ngàn

Du Côn Hữu Dụng

Phan Ni Tấn

Tôi là Côn. Lớn lên trong một tu viện trên phố núi. Ra đời hành tẩu giang hồ chưa đầy một năm người trong phó nói tôi lá thằng du côn hữu dụng. Các Sơ cười hề hề nói đáng lẽ phong tôi là "hiệp khách hành" mới đúng, tôi nghe cũng chỉ cười hề hề.
Hai mươi năm trước, các Sơ bác ái lượm tôi ở bãi rác công cộng đem về nuôi cho ăn học. Năm học vỡ lòng lớp mẫu giáo tôi rụt rè như con gái. Lên tiểu học tự nhiên tôi đổi tánh thành đứa âm binh nghịch ngợm phá phách nhưng được cái là tôi học hành rất tấn tới, năm nào cũng nhảy lớp, có năm tôi nhảy liên tục hai lớp. Mười lăm tuổi tôi đậu tú tài (diplôme de bachelier) toàn phần. Hồi đó thi tú tài có năm hạng: Tối ưu, Ưu, Bình, Bình thứ và Thứ, tôi đậu Ưu. Thay vì xuống Sài Gòn thi vô đại học tôi bỏ học ra Quy Nhơn tầm sư học đạo. Đao đây là võ đạo, là võ của võ sĩ. Năm năm sau tôi xuống núi quy hồi cố hương chẳng nghề ngỗng gì ngoài nghề đấm đá túi bụi với bọn du đàng ngoài đường phố.
Ở tu viện mỗi sáng thức dậy tôi thường đọc Kinh Tin Sáng "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, Amen" xong ra sân dợt vài đưởng quyền cho giãn gân giãn cốt. Dù các Sơ không giao cho tôi việc gì nhưng ngày ngày tôi vẫn lui cui quét dọn trong ngoài, lau chùi phòng ốc, thay nến trên bàn thờ Chúa như một con chiên ngoan đạo.  Riêng việc bếp núc, cuốc đất trồng rau đã có các Sơ trẻ chăm lo, tôi không phải đụng tới. Thật ra, trong nhà thờ ai cũng biết tôi - vai năm tấc rộng thân mười thước cao - chưa từng biết sợ cái chi trên đới này, ngoài việc sợ… con trùng đất ngo ngoe. Hehe.