Tim tôi nhỏ lệ

Paul Verlaine
Bắc Phong
dịch từ nguyện tác Il pleure dans mon coeur

lệ nhỏ trong tim tôi
như mưa rơi trên phố
nỗi sâu xa buồn khổ
trong tim có nghĩa gì?
tiếng mưa rơi nhẹ hạt
trên mái nhà trên đường
trong trái tim chán chường
như dạo lên sầu khúc
vô cớ mà lệ rơi

Thời Tiết

Nguyễn Hàn Chung

Thời tiết
Gió đâu có biết buồn vui
có khi thành bão giết người
như chơi
Mưa đâu có phải của trời
có khi trần trụi buông lời
phù vân
Sấm đâu có phải là thần
có khi đánh xuống mộ phần

Phảng Phất Hương Trà Cũ

Chuyện ngắn Nguyễn Đức Lập

Tôi không thể nhớ chính xác được là tôi bắt đầu thích uống trà vào lúc nào. Điều có thể xác quyết được là tôi bắt đầu làm quen với trà từ hồi tôi còn học tiểu học. Tôi quen với trà vì thầy tôi uống trà. Gia đình tôi, theo tập quán bên nội, con cái gọi cha bằng thầy.
Thầy tôi uống trà một ngày hai cữ, sáng sớm mới thức dậy và buổi xế, khoảng 2 giờ. Thầy tôi có thói quen hay sai và sai theo kiểu "thấy mặt đặt tên". Khi cần một điều gì đó, ông đảo mắt ngó quanh, đứa con nào lớ ngớ trước mặt ông, đứa đó lãnh đủ.
Có một lần, ông đi đâu đó, đem về một cây bông nguyệt quới. Ông tìm chỗ hạ thổ cho cây, trên cái sân trước rộng không đầy hai chiếc chiếu. Đám xây-lô-cố trong nhà tò mò bu lại coi. Sáu đứa cả thảy chớ ít ỏi gì sao, hai gái bốn trai. Vậy mà không đủ cho ông sai. Đứa nầy chạy đi mượn cây cuốc. Đứa kia vô nhà lục lạo kiếm cái bay. Đứa nọ xách cái ky vô bếp lấy tro. Đứa khác thì kiếm xô xách nước... Sáu đứa chạy như cờ-lông-công. Cây nguyệt quới trồng xong, ông xoa tay sung sướng, tuy rằng từ đầu tới cuối, ông không mó tay vô một chuyện gì hết, ngoài việc rước cái cây bất nhơn đó về nhà.
Lần đó, má tôi phải nói:
- Chắc tôi phải đẻ thêm chừng mươi đứa nữa cho ông sai mới đủ.
Thầy tôi, như vậy đó, đụng ai sai nấy, thấy đâu sai đó, nhưng có một việc không bao giờ ông sai con gái. Đó là việc hầu trà. "Nam trọng nữ khinh" chăng? Tôi không biết. Nếu thiệt phải như vậy, "trọng" theo kiểu đó, không sướng ích cho đám con trai tụi tôi một chút nào.

Đưa Đò

Luân Hoán

đưa người tha thiết đưa người
lạ quen qua lại ngược xuôi mỗi ngày
dòng nước chảy ngày hôm nay
khác hôm qua khác mai này ra sao ?

miên man gió thở rì rào
vi vu gió hát nắng đào mưa bay
đôi bờ chim hót trong cây
bình yên hoa nở lá dày cành xanh

người chậm chạp kẻ tinh nhanh
cùng chung vẻ đẹp hiền lành bao dung
con đò từ tốn khiêm cung
tay dầm khua nước vui chung với lòng

Cưỡng Ký Ức

Hoàng Chính 

1

Người đàn ông nhìn qua khung kính. Cổng bệnh viện nhộn nhịp người ra kẻ vào. Con mắt hắn dừng lại ở một bóng người. Dáng nhỏ, vạt tóc ngang trán, khuôn mặt trẻ thơ, hai má bầu bĩnh dụ dỗ những ngón tay thích nựng. Con mắt láo liên như mắt chú gà con khi biết có diều hâu bay lượn trên cao. Cô gái nhớn nhác trên lề đường. Cái gói thuôn dài quấn khăn trắng ôm thật chặt trong tay, như sợ nó biến đi. Đèn đỏ ở hai đầu, Không có chiếc xe nào chạy trên đường nhưng cái bóng ấy vẫn chần chừ trên phần lề lát gạch.
Người đàn ông đặt tay lên ngực, chỗ túi áo. Rồi những ngón tay luồn vào lòng túi, moi ra mảnh giấy hình chữ nhật. Đưa tấm giấy ra trước mặt, người đàn ông nhìn chăm chăm vào con số ghi trong một ô vuông. Rồi đưa cổ tay trái lên, xem đồng hồ. Nhét mảnh giấy vào lại túi áo, người đàn ông nhìn qua khung kính. Cái bóng nhỏ bé kia vẫn còn đó, thấp thoáng ở cổng bệnh viện. Có lúc cô lẫn vào đám đông, nhưng ngay sau đó lại hiện ra, trên lề đường. Dáng mười lăm mười sáu. Trán giồ, con mắt to và đôi vú đội căng ngực áo. Dù cái gói cô ôm trong tay đã che bớt đi cái căng tròn phơi phới. Túi vải mầu hồng lợt đeo xệ một bên vai. Hai con mắt lại ngó dọc hai đầu đường. Đại lộ chính trong thành phố. Bên kia là bệnh viện bên này là nhà ga xe lửa. Đèn đỏ, xe đọng lại ở hai ngã tư. Người đàn ông cũng hồi hộp nhìn hai đầu. Đường vắng. An toàn, có thể băng qua. Cô gái và cái bọc cuốn tròn trong tay. Tim người đàn ông đập nhanh khi cô gái đặt một chân xuống mặt đường.
Con mắt nhớn nhác. Cái đầu xoay qua xoay lại làm bện tóc lắc lư. Một mảng tóc xỏa xuống trán, che đi một con mắt đen tròn. Cánh tay ôm cái gói tròn sát vào ngực. Người đàn ông thở phào khi cô gái qua được đến bên này đường. Đôi chân lại rón rén trên mặt đá xám.
Người đàn ông ngả người ra lưng ghế dựa. Đưa tay nâng chiếc ly giấy nằm trơ vơ trên mặt bàn gỗ sơn vàng. Chiếc ly nhẹ tênh. Mùi cà phê phảng phất. Người đàn ông đặt lại xuống bàn nhưng những ngón tay vẫn bám quanh vành ly.

Bài Ca Vạm Vỡ

Hoàng Xuân Sơn

Khi anh cất tiếng hát
những viên sỏi xanh cổ súy trận mưa rào
trên mái rêu
hồn ngói nâu bật dậy
nhấp nhổm ký ức nóng tình yêu chúng mình
đẵn ngàn cưa xẻ
những lưỡi cây
những rễ cây xoắn xít lưới thuỳ đan diệu

Cùng vào cõi thơ với Ngu Yên:
“Ý Thức Sáng Tác Thơ”

Trần Doãn Nho.

Ngu Yên làm việc không biết mệt mỏi, vừa sáng tác vừa nghiên cứu về sáng tác.
Về nghiên cứu, sau Ý Thức Về Dịch Thuật (578 trang), Ý Thức Sáng Tác Truyện Ngắn bộ 1 (86 trang) và bộ 2 (824 trang), anh vừa cho ra đời một tác phẩm mới, Ý Thức Sáng Tác Thơ, dày dặn không thua gì những tập trước, 600 trang. Đây là một tác phẩm đa dạng: vừa biên khảo, nhận định, lý luận, vừa phân tích, sáng tác, dịch thuật, và lại vừa thử nghiệm về thơ; và đa dụng: giúp độc giả tìm hiểu thêm về thơ, về cách làm thơ, cách thưởng thức thơ và có thể cả …bối rối với (quá nhiều) cách làm thơ và những bài thơ mà anh giới thiệu.
Theo tôi, tập sách vừa công phu lại vừa là một nỗ lực rất lớn của anh: cố gắng đơn giản hóa và cụ thể hóa những vấn đề trừu tượng bằng một lối viết khá trong sáng, rõ ràng, kèm theo dẫn chứng và ví dụ, để độc giả thuộc nhiều trình độ khác nhau có thể nắm bắt nội dung. Mặt khác, nó lý thuyết mà không hoàn toàn là lý thuyết; nó thực hành dù chẳng phải dễ thực hành. Nhưng chắc chắn nó cung cấp cho người đọc rất nhiều điều. Trước hết là kiến thức nhiều mặt: thi ca, triết lý, ngôn ngữ…Sau là kích thích sáng tác và kích thích đọc thơ. Trong lời đề từ, anh nhấn mạnh: cuốn sách không tìm cách trả lời cho cả người sáng tác lẫn người thưởng ngoạn về cách làm thơ cho có giá trị và cách nhận biết một bài thơ hay. Theo anh, “Cuốn sách này thành hình với mục đích minh bạch với bản thân về sáng tác thơ và những hệ lụy của nó.” Vì sao? Vì “Tôi làm thơ với cảm giác của người mặc cảm,” do đó, cách duy nhất thoát khỏi mơ hồ và mặc cảm, theo ông, là cứ “viết xuống.” Để tránh mọi sự hiểu lầm, anh còn cẩn thận nói rõ, “Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang hướng dẫn các người khác làm thơ, đây là một suy nghĩ lầm lẫn. Tôi chỉ có ý định kể lại những tư duy và thử nghiệm trong hành trình tìm hiểu nghệ thuật sáng tác thơ.”
Trong phần I, Sáng Tạo Bằng Trải Nghiệm, trước hết, Ngu Yên đề cập đến bản tính và bản sắc của thơ. Nó cung cấp cho tôi, một kẻ làm thơ tơ-lơ-mơ, khá nhiều khái niệm thú vị. Chẳng hạn, Ngu Yên phân biệt giữa “làm mới thơ” và “làm thơ mới”. “Làm mới thơ” là sáng tác hoàn toàn mới từ hình thức đến nội dung, từ cấu trúc đến cách diễn đạt trong lúc “làm thơ mới” là sáng tác theo thi pháp mới. Từ đó, anh cho rằng “làm thơ cũ” khác với và “làm cũ thơ”. Nếu “làm thơ cũ” là sáng tác theo kiểu cũ thì “làm cũ thơ” là cố sáng tác theo kiểu mới nhưng không thành công vì thiếu cẩn thận và thiếu học thuật. Chẳng hạn, anh cho rằng “Nghệ thuật thơ là một sinh vật.” Sinh vật đó “tự sinh, tự phát, tự lập”; nó “không thể nhốt trong chuồng” và “sản xuất ra nhiều con cái.” Và con cái lớn khôn theo “thực phẩm thơ” mà nhà thơ đã cung cấp và nuôi dưỡng.”

Những Chiếc Ghe Lạ

Võ Kỳ Điền

Từ khu dựng lều của người Việt nhìn về cuối đảo là một vách đá xám đen sừng sững chắn bít chơn trời, nhô hẳn ra biển xanh. Những khối đá đồ sộ to cao hàng mười, mười lăm thước nằm ngang nằm dọc gồng mình ra đón những đợt sóng hung bạo từ ngoài khơi xa xăm đập thẳng vào nghe ầm ầm, ầm ầm suốt ngày đêm. Những con hàu già cỗi rong rêu xanh xám bám dầy dưới chưn đá từng lớp lớp. Đá xanh đen thi gan cùng biển cả nằm lỳ ra đó cả triệu triệu năm. Bên kia vách đá là làng đánh cá của ngư phủ Mã Lai. Mỗi sáng từng đoàn ghe thức dậy một lượt với mặt trời, nổ máy dòn dã xình xịch ra khơi. Ghe đánh cá Mã tương đối nhỏ nhưng hai bên hông to bè ra, khác với ghe Việt thon mà dài. Mới ngó là phân biệt được liền. Ghe mình giống một cô gái ốm cao và chưa chồng. Ghe Mã là một bà bầu lùn thấp được trang điểm sặc sỡ từ đầu đến chưn. Chiếc nào cũng còn mới được sơn phết đủ thứ màu, hầu như không thấy dấu vết đen đúa cũ kỹ hư mục. Những tảng màu xanh đỏ vàng trắng được sơn xen kẽ nhau lằn nhỏ lằn to vòng quanh thân ghe, tạo được cái vẻ xinh tươi đẹp đẽ. Những ngư dân đánh cá ở mặt trước đảo, họ dùng lưới nhỏ và ít người bạn phụ việc vì có lẽ nơi đây còn quá gần bờ. Những ghe lớn có dàn lưới to hơn chắc ở tận ngoài khơi. Ngoài mấy ghe đánh cá còn có những chiếc chuyên chở hàng óa, những loại trái cây thổ sản giống y bên mình. Những ghe chở dừa, chuối, thơm, mía... được chất khẩm đầy khoang, ghe lướt êm đè sóng mà đi từng đoàn bốn năm chiếc. Buổi chiều mặt trời mỏi mệt vừa nghiêng xuống gần mặt nước thì những đoàn ghe đánh cá xình xịch trở về đi ngủ. Trên ghe thấp thoáng người dân Mã quấn khăn trên đầu mặc xà rông thong dong ngắm trời mây. Đời sống họ trông có vẻ an nhàn sung túc. Nhìn vẻ thoải mái của họ mà tôi sướng lây. Cả ngày không việc gì làm tôi bồng con nhỏ sáng sáng chiều chiều đón ghe đánh cá đi, về để cho qua thì giờ khắc khoải chờ đợi. Mãi cho đến một buổi chiều khoảng bốn, năm giờ, ánh nắng còn chói gay gắt trên mặt biển, từ thiệt xa có một chiếc thuyền Mã chạy thẳng ngay vô đảo. Tôi mắt kém nên không để ý làm chi. Mỗi ngày có hàng hai ba chục chiếc đi ngang qua đảo là thường. Ngoài ra có chiếc của tụi lính liên lạc với đất liền hàng ngày, đó là không kể những chiếc tàu sắt đồ sộ thường ghé đậu cặp cầu tàu. Chiếc thuyền nhỏ như cái tô lần lần lớn như con bò mộng... rồi bằng cái xe hơi. Tôi cũng thấy gì khác hết. Anh Tư Trần Hưng Đạo nhìn thấy là lạ rồi đi sấn ra bờ cát. Bỗng dưng anh la lớn:
-- Thuyền tiếp tế, bà con ơi!

Vợ Chồng

Nguyễn Hàn Chung


Gái nói em hay khờ dại
Trai bảo anh mới dại khờ
Em nguýt dài anh một cái
Anh bèn ông ổng đọc thơ
Mấy chục năm rời gồng gánh
Họ quên nhắc lời ban đầu
Hai người có người khờ dại
Thế nào cũng có người đau
Cuối chiều hỏi ai khờ dại
Hai người không ai nói đâu!

Nguyễn  Hàn  Chung

Chân Mang Giầy Số 6

Song Thao

Hạo nằm ngửa trên cát hai tay vòng làm gối dưới đầu. Cát nhuyễn và nóng. Lưng anh ấm áp dễ chịu. Ánh nắng sỗ sàng tràn vào mắt anh. Ngực và hai chân anh râm ran như có cả một đàn kiến đang tới lui nhộn nhịp. Anh chong mắt nhìn lên. Bàu trời sà xuống thấp. Mây xanh mây trắng trộn lẫn nhau như có ai cắc cớ đổ tràn lan từng vạt sữa chua để lâu ngày. Anh thả hồn lơ lửng trên những tầng mây rắc nắng óng ánh xà cừ. Giữa khoảng không gian bao la bàu trời có vẻ thân mật gần gũi. Gần đến nỗi khuôn mặt Thùy được cài vào mây nằm gọn gàng trước mắt anh. Anh nhắm mắt muốn xua đi hình bóng đang muốn quên. Ánh nắng được lọc qua mí mắt trải ra một màu đỏ chói chang. Vòng môi Thùy nhếch thành một nụ cười thách thức như trêu chọc anh. Anh kéo chiếc khăn lông, quay người nằm úp mặt trốn chạy. Thùy vẫn tinh quái nằm trong mắt anh. Hạo tự nhủ lòng. Thùy đã là quá khứ. Bỏ vào hộp cất kỹ đi. Nhưng Thùy chẳng chịu nằm yên trong hộp. Từng lúc Thùy vẫn cứ lơ lửng lượn lờ trong anh. Xếp một mối tình như dìm một chiếc phao xuống nước. Cách gì nó cũng trồi lên được.
Tiếng con gái ồn ào cười nói bên cạnh anh. Mặt Hạo chôn chặt trong chiếc khăn tắm nhưng hai tai anh như muốn vểnh lên hết cỡ. Anh chăm chú phân biệt từng giọng nói.Cũng chẳng dễ dàng gì. Giọng nào cũng lanh chanh nhảy nhổm lên nhau lẫn lộn. Những tiếng chửi thề gối đầu nhau phát ra dẻo quẹo. Chắc toàn những chiếc miệng chửi nhau có bằng cả. Hạo nghe léo nhéo một hồi rồi mặt cát bên cạnh anh rung động những bước chân chạy thình thịch. Anh mơ màng trong cái êm ả vừa được trả lại. Cả thân người anh được thả lỏng tận hưởng những giây phút thanh thản.

Cơm Rau Đầu Tuyến

Bắc Phong

* Phỏng ý truyện bữa cơm có chút rau của Trung Hậu

chặt đầu đuôi đánh vẩy
kho tiêu cá lù đù
ăn một mình nhớ bạn
thuở tạp dịch biên khu

tân binh đi chôn xác
lính sinh bắc tử nam
bẻ cây dựng thánh giá
làm dấu tích mộ phần

bạn cầm xẻng đào hố
ngậm ngùi đời chiến binh
mình chôn người ta trước
sau người ta chôn mình

'Thơ Con Cóc': Một bài thơ hay

 Nguyễn Hưng Quốc

Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi

Yêu thơ, thuộc khá nhiều thơ, tôi có thói quen hay đọc thơ, khe khẽ, một mình, nhất là vào những buổi chiều, đi làm về, nhìn nắng ngẩn ngơ vàng, lòng bỗng dưng, nói như Xuân Diệu, ‘hiu hiu khẽ buồn’. Những lúc ấy, dù không mong, thơ vẫn hiện về, thầm thì, như một lời đồng điệu. Thường là thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và nhiều nhà thơ khác, trước năm 1945; những bài thơ ngọt ngào vô hạn, đọc lên, ngỡ có hương thơm thoang thoảng quanh mình và ngỡ lòng mình, giống như Hồ Dzếnh ngày nào, hoá thành rừng, thành mây, đầy một niềm chiều.
Thế nhưng, lạ, dễ đã mấy năm rồi, không hiểu tại sao, càng ngày tôi càng mất dần cái thói quen thơ mộng ấy. Tôi vẫn đọc thơ nhưng hầu như bài thơ nào đang đọc dở dang cũng đều bị cắt ngang bởi một bài thơ rất vô duyên: ‘Thơ con cóc’. Từ đâu đó, tận trong tiềm thức, bài ‘Thơ con cóc’ nhảy chồm ra, giành giật, chen lấn, xô đẩy, cuối cùng, thật oái oăm, bao giờ nó cũng thắng thế.