Hồi Ký Cao Xuân Huy
Ba
Huế đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cả
thành phố chỉ còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo
Việt Cộng nã đều vào cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây
người ta đang đạp xe ba bánh, xe xích lô đi hôi của.
Ði lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền
mặc dù cầu này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy,
chẳng gì cũng chỉ còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm
chình ình, máy vẫn còn nổ mà không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói
với mấy thằng lính đệ tử.
“Quay lại nhìn Huế lần chót bay, chắc chắn là mình sẽ không đánh ra tới đây để lấy lại đâu.”
Một nỗi buồn dâng lên trong tôi, không khóc nhưng mắt tôi đoanh
tròng. Bao nhiêu gian truân, bao nhiêu xương máu, bao nhiêu xác người,
bao nhiêu mồ hôi nước mắt của bạn bè, của anh em đồng đội tôi đã đổ
xuống cho cái vùng địa đầu nghiệt ngã này. Bản thân tôi cũng đã hai lần
đổ máu ở nơi này, bây giờ bỗng chốc bỏ đi, hỏi ai là người không tức
tưởi. Ðù má những thằng chịu trách nhiệm trong vụ bỏ Huế này, lịch sử sẽ
bôi tro trát trấu vào mặt chúng! Những ai đã từng tuyên bố, từng hô hào
tử thủ Huế giờ này ở đâu? Khốn nỗi, những thằng đánh trận mà luôn luôn
đi đàng sau và luôn luôn bỏ chạy trước lại là những thằng có quyền, có
quyền mà hèn nhát, đốn mạt nên bây giờ bao nhiêu người khốn đốn, rút
chạy như một lũ thua trận. Nhưng thực sự chúng tôi đã đánh nhau đâu để
bị gọi là thua! Ðồ tiếp liệu trong thành Mang Cá dư sức cung cấp cho lữ
đoàn tôi ít nhất là ba tháng, tại sao không cho chúng tôi vào thành Nội?
Ờ mà tử thủ làm chó gì, bao nhiêu thằng xếp cút mẹ nó hết rồi, vợ đẹp
con khôn và tiền bạc bao năm ăn bẩn không lẽ lại vứt bỏ. Vậy thì tội chó
gì mình lại nghĩ đến chuyện ở lại đánh nhau để chết oan mạng, cùng lắm
được vài giọt nước mắt cá sấu, một cái huy chương không giá trị, những
lời ca tụng giả dối, ngoài cửa mồm thôi chứ có mẹ gì nữa đâu. Ðồ chó má!
Qua hết cầu, tôi gặp đại úy Chiêu, Ðại đội trưởng đại đội 3, tay cầm
chai rượu chát khổng lồ, túi đút chai rượu mạnh. Thấy tôi ông kêu lớn:
“Ê Huy, nhậu mày.”
Bao nhiêu tủi hờn, căm hận, buồn bực biến mất nhanh như viên đạn ra
khỏi nòng súng. Bọn tôi ngồi quây tròn giữa ngã tư đầu nam cầu Trường
Tiền nhậu không có mồi, không có nước đá “chữa lửa” thì chúng tôi nhậu
chay. Câu chuyện lại vui như pháo Tết. Mấy tên lính không biết lấy xe
xích lô của ai chở đầy xe thuốc lá Ruby và bia Quân tiếp vụ đến tiếp tế
và nhập cuộc. Tôi đập vỡ cổ chai bia rót từ đầu xuống, người ướt đẫm bia
thích thú, từ bé đến lớn chưa bao giờ được tắm bằng bia mà. Nhưng chẳng
có cái dại nào giống cái dại nào: bị ướt bia, người tôi dính nhem nhép
khó chịu.
Ðang ngồi nhậu, Ðại đội trưởng tôi không biết từ đâu tới cho biết
điểm hẹn đã thay đổi vì những kho đạn, kho xăng ở Thuận An đã bị cháy,
không biết vì pháo kích hay vì đặc công. Ðiểm tập trung mới là bến phà
Tân Mỹ.
Mấy ông lính của tôi không biết vác ở đâu ra một lô súng mới tinh,
nào là M-16, nào là M-79, nào là đại liên M-60, còn có cả máy truyền tin
ANPRC-25 nhưng không có pin. Tôi bảo lính đi lấy thêm, đại đội trưởng
tôi không chịu:
“Vác nặng thêm chứ được cái gì!”
“Nặng khỉ gì, mình đi tàu đâu có vác.”
“Tôi nói không, giờ này không lo mà đi đi, còn ở đó mà lo súng với lo nhậu. Ði!”
Tôi uể oải đứng dậy. Lệnh đi thì đi chứ thực sự tôi còn muốn ngồi
nhậu, mấy khi còn có dịp ngồi xếp chân bằng tròn giữa ngã tư mà nhậu thế
này. Ung dung ngồi nhậu nhìn thiên hạ hớt ha hớt hãi thú lắm chứ. Tôi
đi qua khách sạn Hương Giang lúc này đã hết bị pháo kích, qua Ðập Ðá,
đến ngã ba con đường đất đỏ. Ngã ba này là điểm tụ hội của dòng người đi
từ Huế ra và dòng người quá nhanh chân nên phải đi ngược từ Thuận An
vào. Tất cả đổ vào con đường đất đỏ để đến bến phà Tân Mỹ.
Ðại đội trưởng ra lệnh tôi đợi ở ngã ba để chỉ đường cho lính ở cả hai phía tới, còn ông ta nhập vào dòng người đi trước.
Tôi gặp So, trung úy đại đội trưởng đại đội 2. So, Hồ, Sáng và tôi là
bốn thằng cùng về tiểu đoàn một ngày. So cũng đứng lại đợi những con
nhạn là đà, đứng với nhau cùng ngậm ngùi về chuyện thằng Sáng. Chừng nửa
tiếng So cũng lại đi trước.
Khoảng gần 3 giờ sáng, khi dòng người thưa dần tôi mới đi. Ði chừng
chưa đầy 20 phút, chúng tôi mất bóng những người đi trước vì bị đứt
đoạn. Ðến một ngã ba tẽ ra như hình chữ Y, hai ngã đường đều lớn như
nhau, tôi rất phân vân trong sự lựa chọn. Trong số người có mặt, tôi là
thằng có cấp bậc cao nhất, tôi lại có máy truyền tin nên mọi người đều
trông vào tôi. Tôi gọi máy cho đại đội trưởng:
“Tôi gặp ngã ba hình chữ Y, 369 cho biết đi đường nào?”
“Ði thẳng.”
Mẹ kiếp, vậy thì hỏi làm chó gì cho mất công, đường nào cũng là đường thẳng và đường nào cũng là đường rẽ.
“Ông cho tôi biết phải đi về hướng nào?”
“Hướng nam, bộ ông không đang đi về hướng nam sao?”
Tôi không muốn hỏi nữa. Ðường bên trái về hướng đông nam, đường bên
phải về hướng tây nam. Tôi chọn đường bên trái vì chắc chắn đường này sẽ
ra đến phá Tam Giang. Ði được chừng hai cây số, có một xe Jeep từ sau
chạy tới. Tôi hỏi:
“Phải đi đường này không mấy anh?”
“Ừ, gần tới phá rồi.”
Chắc ăn là mình đã đúng đường, cứ thế chúng tôi đi. Nhưng khoảng
chừng 15 phút sau, chiếc xe Jeep lúc nãy đi ngược trở lại, không đợi
hỏi, mấy người trên xe đã nói:
“Tụi tôi ra tới phá rồi, không gặp ai hết, quay lại đi.”
Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Tôi liên lạc với Ðại đội trưởng:
“369 – 520.”
“Nói.”
“Tôi đi lạc rồi, bây giờ vòng lại thì xa quá, ông bắn cho tôi ba phát súng để tôi định hướng.”
Im lặng. Tôi gọi lại:
“369 – 520.”
“Nói.”
“Sao ông chưa bắn?”
“Bắn rồi.”
“Tôi không nghe gì hết, ông bắn lại đi.”
Lại im lặng. Tôi lại gọi:
“369 – 520.”
“Nói đi.”
“Ông bắn chưa?”
“Rồi, cha nội.”
“Vậy thì tôi đi lạc xa quá rồi!”
“Ông rán đi làm sao cho kịp thì đi.”
Giận quá tôi mỉa:
“Cám ơn 369.”
Chúng tôi kéo nhau đi ngược trở lại, đi theo tôi có đến bốn, năm chục
người nhưng thầy trò tôi chỉ có ba. Thế là mất toi cả hơn tiếng đồng
hồ, bù lại được cái là tăng thêm mệt nhọc và sự bực mình.
Về đến ngã ba chữ Y lúc nãy, đương nhiên lần này tôi không còn phân vân hay phải hỏi đường.
Càng đi đoàn người phía sau càng đông dần và dần dần qua mặt chúng
tôi. Có rất nhiều xe đi qua, tôi chận được một xe Jeep không đến nỗi
chật lắm, cả ba thầy trò tôi cùng lên được trên xe. Tôi nghĩ bụng, mệt
quá rồi, thôi thì phó mặc cho tài xế. Ngủ.
Tôi ngủ ngon lành cho đến khi xe đến bến phà Tân Mỹ khoảng 6 giờ
sáng. Người đã tập trung ở đây rất đông nhưng phương tiện qua sông lại
không có một cái. Bao nhiêu ghe, gọ nằm hết ở bờ phá bên kia. Tôi chẳng
rỗi hơi mà lo chuyện làm sao để qua phía bên kia phá, không phải là việc
của tôi.
Trong thời gian nghỉ ngơi để chờ đợi, thiếu tá Thành cho tập họp các sĩ quan của tiểu đoàn lại để tự giới thiệu.
“Tôi là thiếu tá Thành, Ðinh Long Thành, tiểu đoàn trưởng mới của các
anh. Tàu đã đợi sẵn chúng ta ở bờ biển, các anh kiểm điểm lại quân số.
Những mất mát về vũ khí, trang bị không thành vấn đề. Chúng ta sẽ được
tái trang bị khi vào đến Ðà Nẵng.”
Kể cũng tức cười, sau khi chạy vắt giò lên cổ, chạy ướt nhẹp cả quần,
tiểu đoàn trưởng mới được giới thiệu với các sĩ quan trong tiểu đoàn.
Quân số đại đội tôi thiếu gần chục mạng, tuy nhiên người vẫn tiếp tục
đến. Trung đội 2 của Huy mập cũng đã có mặt, kể cả những người bị thương
nhẹ; còn những người bị thương nặng tôi không biết họ ở đâu nhưng chắc
là được yên ổn, an toàn.
Khoảng 11 giờ đại đội tôi vượt xong phá Tam Giang.
Nơi mới đến tôi chỉ biết duy nhất có một điều là bốn bề là nước, phía
bắc là cửa Thuận An, phía nam là cửa Tư Hiền, phía tây là phá Tam Giang
và phía đông là biển Ðông. Một cái túi được bọc kín chung quanh bằng
nước, bề ngang đông tây rất hẹp.
Chúng tôi được chia vào nằm ở những căn nhà dọc hai bên con đường đất chính của làng ở ven phá để ăn uống, nghỉ ngơi.
Rải rác có thêm những người lính của đại đội tiếp tục đến, cho biết
đã có những đụng độ giữa Việt Cộng với những người đi phía sau.
Hơn 12 giờ trưa, chúng tôi được lệnh di chuyển ra bờ biển. Vừa lên
hết đụn cát cạnh làng tôi đã thấy ngay một chiếc tàu thật lớn mang số
HQ-801 thừa sức chứa cả lữ đoàn đã đợi sẵn ở gần bờ không biết từ bao
giờ. Tôi nghĩ bụng chỉ còn lên tàu nữa là chấm dứt sự rút chạy, bọn Việt
Cộng có tới nơi cũng sẽ chỉ được một phen chưng hửng. Nhưng lên tàu
cũng còn có nghĩa là chấm dứt một cách nhục nhã và vô lý cuộc chiến đấu
khủng khiếp mấy năm trời nay để giữ vùng Quảng Trị và Huế, và sẽ chẳng
bao giờ còn trở lại cái nơi đã in đậm vào tôi những kỷ niệm vui buồn xấu
tốt.
Sóng có vẻ cao ở sát bờ nên tàu phải đậu cách bờ có đến khoảng năm
mươi mét. Những người dân chạy loạn và lính tráng của các đơn vị khác
tan hàng đã đứng đầy ở bờ biển. Họ đã chạy theo chúng tôi từ Quảng Trị,
Huế và các vùng phụ cận về đến đây.
Theo lệnh lữ đoàn, mỗi tiểu đoàn tập họp thành một khối đứng quay
lưng ra biển. Ðại đội tôi mỗi trung đội đứng một hàng dọc cộng với một
hàng dọc ngắn của ban chỉ huy đại đội.
Trong khi kiểm điểm quân số, tiểu đoàn bắt được một tên Việt Cộng trà
trộn. Tên này cũng mặc quần áo Thủy Quân Lục Chiến, cũng đeo bảng tên
màu đỏ của tiểu đoàn, bị phát giác vì một sự ngờ nghệch nhỏ. Mỗi bảng
tên đều có con số của từng đại đội, tên Việt Cộng này mang bảng tên
không có số tức là thuộc đại đội chỉ huy lại đứng vào khu vực của đại
đội 2. Bắt được tên Việt Cộng trong hoàn cảnh này dù có nhân đạo đến đâu
cũng không thể giữ làm tù binh, mà chỉ có một cách duy nhất là tặng
chàng cái vé đi tàu suốt.
Buổi sáng kiểm điểm quân số ở bên kia phá, tôi chỉ nghe báo cáo của
các trung đội, bây giờ đâm hoảng, tôi phải đích thân đi nhìn mặt từng
người lính trong đại đội. Oái ăm thay ngay trong trung đội tôi – tôi làm
trung đội trưởng trung đội 4 thay cho thiếu úy Sáng từ ngày Sáng qua
đơn vị mới, vì tôi là đại đội phó nên mọi sinh hoạt của trung đội đều do
trung sĩ nhất Ba trung đội phó điều động. Tôi hoảng hồn vì trong trung
đội tôi có mấy tên mang đúng bảng tên của đại đội nhưng mặt mũi lạ hoắc,
có một tên còn dắt theo một cô gái đang lúng ta lúng túng, mặt mũi tái
xanh tái mét. Tôi hỏi:
“Mày đại đội nào?”
“Em đại đội 4.”
“Mày trung đội nào?”
“Em trung đội 4.”
“Trung đội trưởng mày là ai?”
“Là trung úy”, – vừa nói người lính vừa chỉ tôi.
Trung sĩ nhất Ba đỡ lời:
“Nó là lính mình đó trung úy” – anh ta chỉ thêm mấy người lính nữa –
“mấy đứa này cũng lính mình luôn trung úy. Tụi nó về đại đội hồi ông
đang đi phép, ra tới đại đội ông đi Mỹ Chánh liền nên không biết tụi
nó.”
Tôi hỏi tiếp:
“Cô gái này là gì của mày?”
Cô gái hốt hoảng nói:
“Em là vợ anh ấy.”
“Phải không mày?”
Tay lính ngập ngừng, tiếng dạ lí nhí trong miệng.
“Mày mới Sài Gòn ra mấy ngày, tại sao đã có vợ Huế?”
Cô gái òa lên khóc, thú nhận:
“Em không phải là vợ anh này, em là người Huế, em học năm thứ hai Văn
Khoa” – vừa nói cô gái vừa móc căn cước và thẻ sinh viên đưa cho tôi –
“em không phải là Việt Cộng.”
Bất thần cô gái sụp xuống lạy tôi như tế sao:
“Trung úy cho em đi theo với, em không còn cách nào để đi được.”
“Mấy cô hoạt động chống chính phủ dữ lắm mà, sao không ở lại đón Việt
Cộng, chạy theo tụi tôi làm gì. Hay cô được gài đi theo mấy thằng lính
“mồ côi” này.”
Cô gái khóc rống lên một cách thảm thiết, tay vái tôi lia lịa:
“Gia đình em đi trước hết rồi, còn mình em ở lại để thu xếp nhà cửa
rồi đi sau, đâu ngờ đã không kịp thu xếp gì hết lại còn bị kẹt như vầy.”
Tôi bảo trung sĩ nhất Ba:
“Anh coi kỹ giấy tờ rồi khám người cô ta xem có gì khả nghi không?”
Tôi không phải là người dễ xúc động vì những giọt nước mắt đàn bà,
tôi cũng không phải là một người cả tin nhưng xét cho cùng, người con
gái trong hoàn cảnh loạn lạc này, một thân một mình nếu không bám vào
chúng tôi thì còn biết bám vào ai, kể cả trường hợp nếu cô ta là người
của Việt Cộng gài cũng chẳng có gì đáng ngại vì tôi đâu để cho cô ta đi
lại thoải mái, còn nếu cô ta đích thực chỉ là một người dân cần chạy
theo chúng tôi mà mình không giúp chẳng hóa ra mình tiếp tay cho Việt
Cộng hay sao.
Năm 72, tôi đã chứng kiến cảnh những người dân Quảng Trị bị kẹt lại
trong vùng của Việt Cộng, khi chúng tôi đánh chiếm lại vùng thôn Bích
La, Triệu Phong, có những đoàn người đã vượt bao nhiêu nguy hiểm để tìm
về với “bộ đội miềng”, có đoàn lúc khởi đầu khoảng ba trăm người, sau ba
bốn ngày đêm đi ngày trốn, đến khi gặp được chúng tôi chỉ còn chừng một
trăm. Có đoàn khi đi khoảng một trăm, sau nhiều ngày trốn tránh đã
không bị chết dọc đường, nửa đêm cuối cùng của đoạn đường vướng phải mìn
tự động của một trung đội tiền đồn chết một số, tiếng rên của những
người bị thương, tiếng la của những người hốt hoảng với âm điệu miền
Trung đã lọt vào tai chúng tôi thành những tiếng “xung phong”, thế là
đạn chúng tôi bắn ra, lựu đạn chúng tôi ném ra lại giết thêm một số dân
không tí kinh nghiệm gì về chiến trường, sáng ra nhận diện được nhau
rồi, gom góp lại còn khoảng chưa tới năm mươi người, kể cả những người
bị thương.
Có toán về gặp chúng tôi giữa ban ngày, có một người đàn ông mừng quá
ôm chầm lấy một người lính vừa nhắc bổng lên vừa kêu “gặp lính miềng
rồi, gặp lính miềng rồi, chết cũng sướng, chết cũng sướng”, kêu xong ông
ta nhảy ùm luôn xuống dòng sông Vĩnh Ðịnh, khi chúng tôi vớt lên được
chỉ còn một cách là đắp cho ông ta một nấm mồ. Hương hồn ông chắc chắn
là đã ở nơi miền cực lạc.
Những hình ảnh đó của quá khứ đã bắt buộc tôi phải cho cô gái Huế học
Văn Khoa đi theo trong đại đội, nhưng dưới sự kiểm soát của hai người
lính trong ban chỉ huy của đại đội. Khả năng và quyền hạn của tôi không
thể giúp được cho tất cả những người dân đang chờ đợi, mong ngóng được
lên tàu đứng đông nghẹt ngoài kia, nhưng giúp chỉ một cô gái thôi thì
tôi có thể làm được.
Cả lữ đoàn tập họp đứng khơi khơi quay lưng ra biển từ hơn 12 giờ
trưa cho đến 4 giờ chiều trong khi chiếc HQ-801 vẫn dập dềnh chờ đợi.
Không hiểu để làm gì và không hiểu tại sao. Ðiều này chỉ có Ó Lương tức
Ðại bàng Lâm Thao biết, hoặc thêm một ít sĩ quan trong ban tham mưu của
lữ đoàn biết, còn ngoài ra, chúng tôi, những thằng lính đang đứng tập
họp trong hàng không thể nào biết. Có một số lính vô kỷ luật đã trốn
khỏi hàng, lấy mấy chiếc ghe nằm trên bãi biển chèo ra tàu cùng với
những người lính Bộ Binh và một ít dân chúng. Trong số này tôi thấy có
cả trung sĩ Châu, hạ sĩ Nam lùn và mấy người lính của đại đội. Tôi nhìn
những thuộc cấp đó hoàn toàn dửng dưng, chẳng còn buồn nghĩ là họ đúng
hay họ sai nữa.
Người lính cuối cùng của đại đội vắng mặt khi tập họp đã tìm đến,
binh nhất Tuấn. Tuấn bị bắn nát cánh tay trái, máu nhuộm đỏ cả tay áo,
quần áo người ngợm ướt nhẹp, bê bết bùn, nhưng vẫn vác khẩu đại liên
M-60 với còn chừng nửa dây đạn trên vai phải. Tuấn nói:
“Tụi nó đã kéo tới đầy hết bên kia phá rồi. Em bị tụi nó bắn theo khi
mới ra khỏi bờ được một khúc. Lính mình bị kẹt bên kia vẫn còn nhiều,
đang đụng.”
Chúng tôi được lệnh di chuyển khi y tá đang băng cánh tay cho Tuấn đại liên.
Ðừng tưởng bở, không phải chúng tôi di chuyển ra bờ biển để xuống
tàu, và cũng không phải chúng tôi di chuyển ra bờ phá để lập tuyến phòng
thủ, mà là di chuyển một hàng dọc dọc theo bờ biển đi về hướng nam.
Nhưng cũng không phải là tiếp tục cuộc rút lui đến một điểm hẹn khác, mà
lần lượt các tiểu đoàn, các đại đội nối đuôi nhau tà tà mà đi. Tôi xin
nhấn mạnh là chúng tôi đi rất tà tà dọc theo bờ biển.
Trong khi đang tà tà dạo mát như vậy, một chiếc trực thăng từ phía
biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát
đựng gạo sấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn đã xảy ra để tranh giành mấy
bao cát đựng lương thực ném xuống được gọi là tiếp tế đó. Có một bao rơi
trúng đầu làm bất tỉnh một người lính. Khốn khổ cho những thằng lính
chúng tôi, đói thì thực sự chưa đói, bao nhiêu thứ bỏ lại hết và sắp sửa
đây còn bỏ lại ngay cả mạng sống của mình, vậy mà đi tranh nhau một ít
lương thực “tiếp tế” kỳ cục đó.
Có tin đồn là chính tướng Lân ngồi trên chiếc trực thăng tiếp tế này
với mục đích là để thị sát, nhân tiện ném xuống cho một ít lương thực.
Tôi không tin điều này vì hai lý do, thứ nhất theo tôi nghĩ là tướng Lân
không thể ra đây trong tình trạng này, và thứ nhì là nếu tướng Lân có
trên trực thăng, chắc chắn người anh cả đã ra lệnh cho chúng tôi xuống
tàu bằng mọi giá chứ không phải để chúng tôi cứ tà tà rước đèn như thế
này.
Chỉ cần một tay binh nhất có nghĩa là chỉ cần có chừng một năm kinh
nghiệm chiến trường, thằng dốt đặc về quân sự, thằng chưa được học một
khóa tiểu đội trưởng nào, chứ đừng nói đến hạ sĩ Nam lùn, trung sĩ Châu,
cũng đã hiểu là chúng tôi phải xuống tàu càng nhanh càng sớm càng tốt,
vì càng dây dưa bao nhiêu là càng rút ngắn khoảng cách giữa chúng tôi
với Việt Cộng bấy nhiêu. Ðại bàng Lâm Thao tức đại tá lữ đoàn trưởng
chắc chắn là biết điều này, vậy thì vì lý do gì chúng tôi đã không được
xuống tàu.
Với đội hình một hàng dọc ngoằn ngoèo như con rắn ở dọc bờ biển,
chúng tôi nhận lệnh ngồi xuống. Chiếc tàu đã ra xa bờ và “đợi” chúng tôi
tận ngoài khơi. Dĩ nhiên nó không thể đậu mãi ở gần bờ để xem chúng tôi
đi dạo mát, để xem chúng tôi nấn ná không có một hành động nào chứng tỏ
chúng tôi muốn xuống tàu cả. Hai ông xếp lớn của chúng tôi, đại tá
Lương lữ đoàn trưởng và trung tá Tống lữ đoàn phó đứng thản nhiên nói
chuyện, cười đùa thân mật với một ông xếp lớn nữa là trung tá Tòng
(trong những bản in trước, vì trông gà hóa cuốc, tôi đã viết là đại tá
Thiệt, biệt danh “Tử Thần”, xin thành thật tạ lỗi với “Tử Thần”) liên
đoàn trưởng liên đoàn 14 Biệt Ðộng Quân. Không hiểu cả ba ông xếp lớn
đang nghĩ gì trong những cái đầu của họ, đang thú vị gì trong những câu
pha trò của họ, đang bàn bạc gì bằng những cái mồm của họ. Chỉ biết là
cả ba đứng nói chuyện rất thoải mái và thỉnh thoảng cười ồ lên hình như
vì một câu pha trò đầy ý nhị.
Trung tá Tòng là người của đơn vị khác và hơn nữa, ông ta là đơn vị
trưởng của một đơn vị không còn quân, dĩ nhiên ông ta không có quyền
hành gì cũng như trách nhiệm gì đối với chúng tôi. Ðối với tôi, ông ta
không khác gì cô gái Huế học Văn Khoa đang bám víu vào chúng tôi. Trung
tá Tống là lữ đoàn phó trong khi đang có mặt lữ đoàn trưởng, ông cũng
không thể có quyền hành hay trách nhiệm gì đối với chúng tôi. Nhưng còn
đại tá Lương, người có cấp bậc cao nhất và quyền hạn lớn nhất ở đây,
người có trách nhiệm về cuộc lui quân của chúng tôi, người mà chúng tôi
phải gọi là đại bàng, ông đã có sẵn một diệu kế trong đầu chăng, ông
đang muốn noi theo danh tướng thời xưa đang lập một trận Bối Thủy tân
thời chăng.
Tôi rất hoang mang với cái trò dị hợm này, tam thập lục kế, tẩu vi
thượng sách. Chúng tôi đã bỏ Quảng Trị, bỏ Huế, chúng tôi đã bỏ bớt
lương thực, đạn dược cùng tất cả mọi thứ trang bị cá nhân, đơn vị lủng
củng khác để tẩu về đến đây, nhưng chúng tôi đã không được lệnh lên tàu
khi hoàn cảnh còn có thể, để tẩu cho xong đoạn đường tẩu. Bây giờ chúng
tôi tẩu đi đâu trong cái túi “lửa” bốn bề là nước này. Phương tiện độc
nhất là chiếc tàu thì nó đã “ra khơi thấy lòng phơi phới” rồi, vì trong
lòng nó đã trống rỗng, không có chúng tôi.
Ngập ngừng là chết, đã không thoái được thì phải tiến, nhưng lấy cái
gì để mà tiến, và tiến đến đâu? Ðạn dược chúng tôi đã hết, lương thực
chúng tôi cũng không còn, chúng tôi lại chỉ ở một bên mép của cù lao
này, mà còn ngồi khơi khơi hóng mát chứ không chịu phòng thủ. Thoái đã
không thoái mà tiến lại không chịu tiến, công đã không công mà thủ lại
cũng không thủ. Có phải đây là một chiến thuật mới nhất đang được ghi
vào quân sử?
Lính của những đơn vị Bộ Binh đã tan hàng và người dân Huế chậm chân
đang chạy theo chúng tôi chắc chắc chắn là hoang mang hơn chúng tôi
nhiều. Họ tụ tập ở nhiều chỗ nhìn chúng tôi, nơi bám víu sau cùng của họ
đang ngồi nhìn trời ngắm biển, chúng tôi đang làm gì chúng tôi còn
không biết thì người ngoài làm sao biết được.
Cứ ngồi như vậy cho đến gần 6 giờ chiều chúng tôi mới nhận lệnh tổ chức phòng thủ đêm. Ðại đội trưởng tôi ra lệnh:
“Ông dắt con cái vô trong kia kiếm chỗ đóng quân tạm. Ðợi tôi đi họp về rồi tính sau.”
Sẵn đại đội đang ngồi một hàng dọc dọc theo bờ biển, tôi cho quay phải thành một hàng ngang, cứ vậy mà đi vào phía trong.
Ðang di chuyển, mấy viên đạn xé gió bay ngang đầu chúng tôi, bắt nhịp
cho dàn đại hòa tấu nhiều loại súng bắn xối xả vào chúng tôi từ phía
những lùm dương trên đồi cát.
Cả lữ đoàn nhốn nháo, người ta dồn cục ùn ùn chạy lên phía bắc, rồi
lại dồn cục ùn ùn chạy xuống phía nam, mấy chiếc M-113 chạy lẫn trong
đám quân này bắn tứ tung loạn xà ngầu, không nhắm vào đâu hết.
Ðại đội tôi đã ở cách đám đông hỗn loạn đó cả trăm thước nên không bị cuốn theo phản ứng loạn xạ của họ.
Sẵn đội hình hàng ngang, tôi dẫn đại đội xung phong ngay tức khắc vào
mấy lùm dương phát ra tiếng súng trên các đụn cát, vừa xung phong vừa
reo hò tở mở. Kết quả rất hài lòng, khoảng chừng một trung đội Việt Cộng
bị đẩy bật ra khỏi vị trí trước sức tấn công vũ bão “bằng mồm” của
chúng tôi. Tấn công “bằng mồm” đừng nghĩ là chúng tôi nấp kín một chỗ
bắn loạn lên trời rồi mồm la xung phong, cũng đừng hiểu tấn công “bằng
mồm” có nghĩa là tấn công bằng đạn mã tử vừa tiến vừa la dưới sự kiểm
soát của huấn luyện viên chiến thuật trong quân trường. Tấn công “bằng
mồm” ở đây có nghĩa là chúng tôi xung phong tiến chiếm mục tiêu hẳn hoi,
Việt Cộng bị đẩy bật ra khỏi vị trí nhưng không một tên nào chết hoặc
bị thương, vì khi xung phong chúng tôi đã không bắn một viên đạn, mà chỉ
có cái mồm ngoác ra mà la, mà reo hò.
Bố trí quân xong, tôi đi một vòng đại đội kiểm soát và được biết
chính xác số đạn của từng người lính chỉ còn trên dưới mười viên. Chắc
chắn là không thể nào giữ nổi một phòng tuyến tuy khá nhỏ so với quân số
một đại đội nhưng lại quá lớn so với số đạn dược chúng tôi đang còn,
tôi cho thu nhỏ phòng tuyến lại. Một người lính đã chết khi đại đội thu
tuyến. Lần đầu tiên trong đơn vị, xác một đồng đội nằm rất gần mà chúng
tôi chịu bó tay, không dám mạo hiểm lấy xác, lý do rất giản dị là chúng
tôi không có đạn để bắn yểm trợ. Trí thư ký sống khôn chết thiêng thông
cảm cho anh em.
Vì là đồi cát nên chúng tôi đào hầm hố, giao thông hào không mấy khó,
mọi chuyện được hoàn tất thật nhanh chóng. Việt Cộng lại bám sát chúng
tôi.
Ðại đội trưởng từ tiểu đoàn về cho biết phát súng đầu tiên Việt Cộng
đã bắn chết đại úy Chiêu – Tô Thanh Chiêu – đại đội trưởng đại đội 3 và
phát súng tiếp ngay sau đó đã bắn trúng giữa trán thiếu tá Nam -Nguyễn
Tri Nam- tiểu đoàn phó, trong lúc thiếu tá Nam đang chia tuyến phòng thủ
cho các đại đội trưởng.
Chiếc tàu đã ra xa, thật xa ngoài khơi, bờ biển đã vắng tanh vắng
ngắt, Lữ đoàn đã bố trí thành một đường vòng cung bảo vệ một đoạn bờ
biển, những người dân và những người lính mất hàng ngũ đã trốn nấp đâu
đó. Mặt trời đã khuất, tất cả đều đã biến mất trong ánh sáng cuối ngày,
chỉ còn lại là những tiếng súng, những lằn lửa đan ngang đan dọc trên
đầu chúng tôi. Chúng tôi di chuyển thật hạn chế dưới giao thông hào được
đào vội vã để chuyền cho nhau những viên đạn đi nhặt, đi mót được. Bóng
tối xuống rất từ từ.
Một chàng trung úy Biệt Ðộng Quân còn đeo cả khẩu Colt 45 bên hông và
cái xẻng sau lưng không biết từ đâu xuất hiện, bò đến chỗ tôi, giọng
trầm:
“Trung úy cho tôi đi theo trong đại đội” – vừa nói anh chàng vừa vỗ
vỗ vào túi quần – “tôi có hơn trăm ngàn, khi về đến Ðà Nẵng mình sẽ đi
nhậu.”
“Một trò hối lộ bỉ ổi, tôi sẽ đồng ý cho anh đi theo trong đại đội
nếu anh có súng và đạn chứ tôi không cần anh phải có tiền. Tôi nhấn mạnh
là súng để đánh nhau chứ không phải là súng để làm cảnh như khẩu Colt
này.”
“Trung úy để tôi đi kiếm.”
Anh ta bò ngược trở lại phía biển, khuất dần sau những mô cát phía sau lưng tôi.
Ðạn cối 61 ly của Việt Cộng nổ rất gần chúng tôi nhưng vì rơi trên
cát nên chẳng hiệu quả gì bao nhiêu, và sự điều chỉnh không được chính
xác vì Việt Cộng không nắm được vị trí chính xác của chúng tôi. Tuy
nhiên những nháng lửa và những tiếng nổ cũng đủ làm cho thần kinh chúng
tôi căng thẳng. Một vài quả lựu đạn được ném ra từ giao thông hào chỉ có
giá trị níu kéo một chút tinh thần còn sót lại.
Tiếng khóc ư ử của cô gái Huế học Văn Khoa vang lên, thỉnh thoảng còn
được cầm chịch bằng những lời kêu than, van vái. Ðàn bà quả thật là vô
duyên trong lúc này, vậy mà còn phải nghe lời than khóc của cái món vô
duyên ấy nữa. Trong trường hợp này và trong hoàn cảnh này, cô nàng quả
chỉ đáng đem ra xử bắn. Tôi bảo tên cao bồi:
“Bưởi, mày tới hỏi con nhỏ bộ muốn chỉ điểm mục tiêu cho Việt Cộng hay sao mà khóc rùm trời vậy?”
Bưởi bò đi một lúc rồi bò về vừa cười vừa nói:
“Con nhỏ vừa khóc vừa kêu cha mạ ơi, trời phật ơi, tay vái lia lịa mà
đâu có thấy nó vái trời, chỉ thấy cái mông nó chổng lên trời thôi, còn
tay nó vái đất. Còn nữa ông thầy, có thêm một cặp nằm ôm nhau trong
tuyến mình.”
“Ngon há, sao mày không tống cổ tụi nó ra?”
“Ðâu được ông, lính mình mà.”
“Lính mình hả, thằng nào vậy?”
“Không phải đại đội mình, đại đội chỉ huy. Tụi nó đi theo trung úy Xuân.”
“Ủa, ông Xuân cũng nằm đây à? Ðể tao đi coi.”
Trung úy Xuân là đại đội trưởng đại đội chỉ huy, nhưng chắc chắn một
điều là đại đội chỉ huy không có mặt ở vị trí của đại đội tôi. Tại sao
ông Xuân lại nằm đây?
Tôi bò dọc theo giao thông hào, nhiều đoạn chạy quanh phía sau ụ cát
nên không phải bò. Ði một vòng để kiểm soát và khích lệ tinh thần lính
tráng, tôi đến gặp trung úy Xuân:
“Tại sao ông lên nằm đây?”
“Nằm với tụi mày chắc ăn hơn nằm dưới kia.”
Tôi không hiểu được ý của câu trả lời.
“Còn cặp nào nằm đây?”
“Cao bồi tao, con vợ nó ở Sài Gòn ra bị kẹt lại.”
Tôi bò đi. Cô gái Huế học Văn Khoa đã cố nén tiếng khóc không cho bật
ra ngoài, thỉnh thoảng chỉ còn nấc lên một tiếng. Tình cảnh này thật
thương tâm, nhưng không ai giúp được gì cho cô ta trong lúc này, và cũng
chẳng có ai rảnh để mà an ủi cô ta. Có mỗi một cô gái nằm gần bên thì
cô này cũng quá sợ, ôm cứng lấy chồng.
Việt Cộng vẫn bắn đều, chúng tôi vẫn đáp lễ cầm chừng.
Ðại đội trưởng chuyển xuống cho một mũ sắt đạn M-79 và lựu đạn. Chính tôi đi kiểm soát để bổ sung cho lính.
Việt Cộng mở đợt tấn công đầu tiên. Với lối đánh quen thuộc, chúng
tôi đã đẩy lui đợt tấn công mở màn, thăm dò của địch nhanh chóng và nhẹ
nhàng, chúng tôi không có một tổn thất nào. Tuy nhiên, vấn đề được đặt
ra là chúng tôi sẽ phải chống đỡ bao nhiêu đợt tấn công trong đêm, và
đến đợt tấn công thứ mấy thì chúng tôi hết nhẵn đạn.
Có lệnh mở đường máu đi về phía cửa Tư Hiền. Vô ích phải không đại tá
lữ đoàn trưởng? Phải mở bao nhiêu lâu và con đường máu phải kéo dài bao
xa, và phải cần đến bao nhiêu máu mới mở được con đường đến cửa Tư
Hiền, và còn nữa, phải tốn bao nhiêu xác người mới đủ để tạo thành cái
cầu bắc qua cửa biển. Và chắc chắn một điều là chúng tôi sẽ không đủ đạn
để mở nổi con đường máu đó. Tại sao không mở rộng khu vực phòng thủ để
bảo đảm an toàn cho tàu vào tiếp tế đạn dược, lương thực tạo điều kiện
thuận tiện và an toàn hơn cho một bãi bốc để di chuyển từng đơn vị nhỏ
ra biển. Nếu chơi trò này tối thiểu chúng tôi cũng phải rút được hai
tiểu đoàn. Lệnh mở đường máu về cửa Tư Hiền là một cái lệnh vô lý, thậm
vô lý, vô ích, thậm vô ích, chỉ là sự dẫy dụa của một con cá đang nằm
trong lưới.
Trời ơi chúng tôi có còn phải là Thủy Quân Lục Chiến nữa hay không,
chúng tôi có còn phải là những thằng lính thiện chiến “quân thù phải
khiếp oai danh” nữa không, hay chúng tôi đã trở thành những cái xác vô
tri vô giác được chỉ huy một cách vô lý. Chúng tôi là những thằng lính
không bao giờ sợ chết, chúng tôi là những thằng luôn luôn tuân lệnh một
cách tuyệt đối, nhưng bây giờ có nên tuân theo cái lệnh này hay không.
Ðã không cho chúng tôi xuống tàu trong khi còn có thể yên ổn mà xuống
chỉ vì vài ba ngọn sóng nhỏ vỗ bờ, đã không cho chúng tôi lập tuyến
phòng thủ khi còn có quyền chọn lựa địa thế. Chúng tôi bị đặt vào một
thế chiến đấu cực kỳ bất lợi, với một địa thế thật tênh hênh mà lại nằm
gọn trong một cái túi bít kín, chúng tôi không còn lương thực, chúng tôi
không còn đạn dược, và cũng không còn sức lực, tinh thần chúng tôi đã
xuống đến mức thấp nhất, bây giờ bắt chúng tôi mở đường máu chỉ có nghĩa
là bắt chúng tôi chọn lấy cái chết nhọc nhằn và vất vả hơn là để chúng
tôi nằm yên ở đây đánh nhau để mà chết.
Còn nỗi bi thảm nào hơn tình thế chúng tôi trong lúc này. Có những
người tìm cái sống trong cái chết, ít ra họ, họ còn cái hy vọng tìm thấy
cái sống mặc dù rất nhỏ nhoi, hy vọng nhỏ đến đâu cũng vẫn là hy vọng,
một mảnh ván mục giữa biển cũng là hy vọng. Còn chúng tôi, miếng ván mục
cũng không trông thấy, chúng tôi không thất vọng, chúng tôi không tuyệt
vọng mà chúng tôi vô vọng. Chúng tôi, những thằng thanh niên khỏe mạnh,
yêu đời, rất ham sống đang ngồi mơ được dậm chân tại chỗ này, đánh nhau
để rồi chết tại đây cho đỡ mệt, chứ không muốn mở đường máu để chết dần
chết mòn dọc đường, cuối cùng đến được một chỗ cũng để chết. Cái chết
kiểu này quả tình không hứng thú tí nào hết.
Nghĩ đến chuyện phải mở đường máu, phải di chuyển cho mệt rồi cuối
cùng cũng chết, nhưng đã có lệnh chuẩn bị tức là sẽ đến lúc thi hành,
quả là ngao ngán. Tôi không muốn thi hành cái lệnh này, nhưng tôi lại
không thể không thi hành lệnh. Vậy thì cách giải quyết tốt nhất để không
phải thi hành lệnh là chết trước, chết ngay tại đây trong lúc này. Tôi
không muốn mệt nhọc hơn nữa để kéo dài cái sống thêm được vài tiếng đồng
hồ. Tôi đi một vòng dọc theo tuyến của đại đội để kiểm soát lính tráng,
lần này tôi đi theo đúng nghĩa của tiếng đi, thẳng lưng mà đi. Cứ thẳng
lưng như vậy tôi đi trong ánh sáng chập chờn của những trái hỏa châu
chiếu đến, kéo dài những bóng đen rung rinh của những lùm dương, mờ dần
rồi đen thui, trời lại sáng lên, bóng đen của những lùm dương lại rõ
nét, ngắn hơn, lại kéo dài ra mờ dần. Ðột nhiên tôi bị hất ngã và không
biết gì nữa.
Đọc tiếp Tháng Ba Gãy Súng: Chương Bốn