Trích Từ Vở Nháp: Đi Tìm Thơ Hay

Ngu Yên 

  Đã nhiều lần tôi tự hỏi: Làm thế nào để làm một bài thơ hay? Đã nhiều lần tôi bỏ cuộc, không rốt ráo tìm câu trả lời. Điều gì đã khiến tôi dừng lại nửa chừng? Có lẽ nào một đầu bếp giỏi lại không biết thế nào là món ăn ngon? Nếu một bác sĩ giải phẫu mà không biết vị trí của ruột gan tim phổi ở đâu thì số phận các bệnh nhân sẽ ra sao? Tôi làm thơ đã gần 20 năm, đọc biết bao là sách viết về thi ca, về các thi sĩ nổi tiếng trên thế giới, sao tôi lại không có một câu trả lời dứt khoát, tự tin, thế nào là thơ hay?
Đúng, Sai thuộc về Chân. Xấu, Tốt thuộc về Thiện. Dở, Hay thuộc về Mỹ. Có người thợ nề già kinh nghiệm và tài năng thiên phú. Ông đo đạc bằng mắt rất chính xác. Chỉ cần nhìn thoáng qua, ông có thể cho biết chiếc tòa lầu chọc trời kia cao bao nhiêu, căn nhà nọ rộng bao nhiêu. Vậy mà ông không thể biết lòng sâu của biển. Dở, Hay thuộc về khả năng thẩm định mỹ học. Nhưng chính cái Mỹ lại là cái không một ai biết chắc chắn. Cái đẹp mơ hồ trong không gian, di động theo thời gian, khác nhau trong mỗi người, thay đổi theo từng thế hệ. Người ta biết có gió nhưng chưa thấy gió bao giờ. Chưa thấy gió nhưng người ta biết dùng gió trong nhiều lãnh vực, kễ cả việc thoải mái như hóng gió. Một người bỏ cả đời để đi tìm cái đẹp, được gọi là nghệ sĩ. Còn người bỏ đời đi tìm gió, gọi là ai?
Dùng đẹp để đo lường giá trị của thơ ca cũng giống như dùng không khí để đo lường sức nặng. Biết là có không khí nhưng làm sao dùng không khí làm đơn vị cân đo sức nặng của một người dù vẫn biết nếu không có không khí, sức nặng kia sẽ tan thành cát bụi. Dùng đẹp để thẩm định thơ hay hoặc dở là chuyện tương đối và chủ quan. Người ta có thể lên cung trăng rồi đến Hỏa Tinh. Sẽ tìm ra trăm ngàn ngõ ngách trong vũ trụ nhưng sẽ không bao giờ tìm được phương pháp vẹn toàn để xác định giá trị của nghệ thuật.

Thời "Giải Phóng": Trả Lại Tiền

Cao Xuân Huy

Cơn thèm đàn bà bắt gã đạp xe loanh quanh trong thành phố.
Đường Hồng Thập Tự lác đác chị em ta đứng thập thò dưới các gốc cây.
“Xe qua lại nhiều quá, không được.”
Gã đảo một vòng công viên trước cổng Dinh Độc Lập. Tối. Mỗi gốc cây đều thấp thoáng bóng người. Vài tay cũng đạp xe rảo rảo giống gã.
“Được rồi.”
Gã tấp vào một gốc cây. Một ả ló ra kéo tay gã:
“Dzô sát trong đây.”
“Nhiêu?”
“Hai chục.”
“Không có đủ.”
“Dzậy có nhiêu?”

Đêm Thắp Lửa

Vũ Quỳnh Hương

Tôi muốn rơi vỡ hết những ngọn đèn trong thành phố
những ngọn đèn dửng dưng
những ngọn đèn hoan lạc
tôi muốn rơi vỡ hết những ngọn đèn trên tinh cầu giây phút này
những ngọn đèn say mê
những ngọn đèn mệt mỏi
chận đứng hết nhịp thở bồi hồi những kinh đô ánh sáng
để chỉ riêng những ngọn nến chúng tôi rực cháy
thắp lửa dậy những phương trời trước mặt
thắp lửa dậy những vùng bóng tối

Ba Bài Mưa Viễn Xứ

Nguyễn Hàn Chung


Chiều mưa Virginia

Chiều mưa viễn xứ không như hạt
mưa rớt ngày đông tuổi thiếu niên
hạt dằn dỗi hạt bay theo hạt
rớt tự mùa xưa vướng sợi mềm
Mưa sững sờ rơi chua xót mưa

Huyễn Mộng

Hoàng Chính

1

Nàng vừa giặt áo vừa đuổi muỗi. Ngọn đèn dầu hắt chiếc bóng lẻ loi lên vách lá hông nhà. Trong bóng tối, chiếc áo đen thẫm trên tay nàng.
Để mai em à. Vừa đổ nước vào thau, người đàn ông vừa nói. Ngày đầu ở quê nhà vất vả làm gì vội.
Em muốn giặt bây giờ, sáng mai mặc. Nàng nói, tay không ngừng vò.
Còn nhiều áo khác mà. Người đàn ông buông xuôi hai tay, nước trong thùng lách tách nhỏ giọt dưới chân chàng.
Nhưng em thích mầu đỏ, mầu của sự may mắn.
Có may mắn thật không. Người đàn ông thầm nghĩ. Nhưng lại nói ra một điều hoàn toàn khác. Đúng rồi, mầu của hạnh phúc.
Nàng không nói gì. Từ lúc về tới chốn này, nàng có vẻ tư lự. Điều gì đó vướng trong tâm tư. Chàng chờ nàng nói ra như mọi khi. Nhưng nàng lặng thinh.
Cho em một phút nữa thôi. Nàng nói theo thói quen. Chàng mỉm cười trong bóng tối. Nơi đây giờ giấc đâu còn là thứ phải quan tâm.

Liêm Lạc Hòa Xuân Làng Tôi

Luân Hoán
1.
hai năm liền ở nhà quê
đường làng và cả bờ đê thuộc lòng
làng nằm giữa hai dòng sông
nhiều lần tôi tắm mà không mặc quần
có cả con gái tắm chung
hai bàn tay bụm thay quần áo luôn
sông trôi chầm chậm như tuồng
giống tôi tọc mạch không buồn ngó lơ

Dủ Học Dủ Ngu

Chuyện ngắn Nguyễn Đức Lập

Nghe cái câu “Dủ học dủ ngu”, càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, “dũ lão dũ tân”, càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơị.
Học tới câu “Dủ học dủ ngu”, tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắc cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:
“Dủ học dủ ngu”, là “càng học càng ngu”, thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngụ.
Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời : “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được”.
Không biết ông Mai Thảo có học 1 bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng “chữ nghĩa thánh hiền”, mà ông dùng 2 chữ “văn chương”. Ông nói : “Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được”. Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông. Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.

Có Một Lich Sử

 Lê Thị Huệ

Thế kỷ hổ ngươi nghìn mộ bia óng bóng
trổ trắng hầm hố người

Nơi những gã đàn ông tính toán điên cuồng
lật lịch sử nào qúa đã
ngà ngà khét rẹt mùi thuốc súng
lủng lỗ tên tuổi, quyền lực, và ham muốn
Nơi những gã đàn ông không mệt lòng
ghen tị nhan sắc không nắm bắt được

Hanoi

Song Thao

Tôi xa Hà Nội năm tôi 16 ngơ ngác như một con ngỗng đực. Hà Nội mà tôi mang theo khi rời xa chỉ là những thứ vụn vặt cùng mằng.
Năm đó tôi đang học lớp Đệ Tứ trường Dũng Lạc, ngay bên hông nhà thờ chánh tòa mà dân Hà Nội ngày đó gọi là nhà thờ Lớn. Hà Nội của tôi nằm trên con đường từ nhà ở bên hông chợ Hôm tới trường và vùng phụ cận. Dọc đường tới trường có đường tầu điện mà chúng tôi thỉnh thoảng quá giang không mất tiền. Không phải đây là loại tầu thí mà vì chúng tôi gian! Tầu có vài toa, mỗi toa có người bán vé đi dọc trong toa. Người này cầm một tấm bảng lớn hơn tập vở trên đó có cái thanh giữ những tập vé dầy cộm. Vé nhỏ bằng hai đốt ngón tay có nhiều màu trông rất vui mắt, mỗi màu là một chặng đường. Khi mua vé, người bán sẽ xé vé đưa cho người mua, cùi vé vẫn dính vào thanh ngang. Thường thì ba mẹ tôi vẫn cho tiền mua vé tầu đi học mỗi ngày nhưng ngày đó chúng tôi đã biết quý đồng tiền nên chẳng dại gì mà đưa tiền cho người bán vé. Chúng tôi đi tầu quịt bằng cách tử tế nhất là xin những chiếc vé còn giá trị cho đoạn đường kế tiếp của những hành khách xuống tầu hoặc,bặm trợn hơn, nhảy tầu đang chạy, hay truyền từ toa tầu này qua toa khác để tránh ông soát vé. Tiền đó chúng tôi làm văn hóa bằng cách đưa cho cô hàng sách để nhận một tập giấy 32 trang, khổ sách in, truyện kiếm hiệp như Long Hình Quái Khách hoặc Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự hoặc truyện trinh thám của Phạm Cao Củng hay truyện đường rừng của Lê Văn Trương được in cóc nhẩy vài ngày một tập, mỗi tập chỉ đúng có 32 trang. Đọc vèo một cái là xong, mong chờ từng ngày để đọc tiếp. Ngày nào cũng phải tạt qua tiệm sách, chăm chú đọc tấm bảng đen viết bằng phấn trắng thông báo truyện mới ra ngày hôm đó. Tôi khá Việt văn chắc là nhờ những tập giấy 32 trang này. Đọc xong, đóng thành tập bằng cách dùng chỉ khâu lại. Tập sách này giúp chúng tôi làm thương mại bằng cách cho bạn bè thuê. Bạn bè cùng lớp toàn những thứ đứng hàng thứ ba sau quỷ và ma nên việc buôn bán này luôn bị trục trặc gây nên những cuộc cãi vã chửi bới và có khi trầm trọng hơn phải vận dụng tới chân tay. Nhiều khi chúng tôi xa rời văn chương để dùng tiền mon men tới những tấm truyện bằng hìnhtarzan hoặc zorro,chữ thì ít, hình thì nhiều nhưng có thể dùng làm đơn vị tiền tệ trong những trận đánh quay, đánh khăng hoặc bắn bi, đánh đáo.

Thư Không Người Nhận

Hoàng Khởi Phong 



 Để tặng một người Mỹ đã chết rất trẻ ở Việt Nam và địa chỉ người nhận là Thiên Đàng. Nơi đó, buồn thaykhông phải là địa chỉ sau cùng của mỗi “chúng ta”


Elbert thân,
Thật tình tôi không ngờ đã đứng trước cửa nhà anh, căn nhà thật xinh nổi bật trên thảm cỏ xanh, một hàng rào gỗ thấp lè tè bên những khóm hồng nở rộ. Một cây táo, trái xanh tròn, lớp da bên ngoài mịn màng như những trái vú sữa ở nước tôi. Sáng nay mẹ anh đến thăm tụi tôi tại nhà thờ, chỗ tụi tôi đang trú ngụ tạm chờ thuê nhà. Dạo đó giữa tháng 8-75, sau một tháng ở Guam, một tháng ở trại Indiana Town Gap, tiểu bang Penn, một tháng ở trường đại học Saint-Joseph, một ngôi trường nằm giữa hai thành phố Augusta và Portland của tiểu bang Maine.
Chúng tôi tới đây tạm trú trong hai lớp học của một nhà thờ nhỏ Winterport. Tôi dám chắc với anh đây là một trong những city nhỏ nhất nước Mỹ, với dân số xấp xỉ một ngàn người, và ngôi nhà thờ nhỏ đó dĩ nhiên không giàu so với các giáo xứ khác.

Minh Râu

Hồ Đình Nghiêm

Một nơi thiếu vắng mặt trời, nơi ấy đêm sẽ dài hơn ngày. Một nơi mưa về rả rích, lê thê và dầm dề, sinh hoạt nơi đó thường gián đoạn, co cụm và đình trệ. Thị trấn Sầu Đông là một trong những nơi như vậy.
Người ta rất khó lượng định chính xác chân đi thời gian và chính họ, quá đỗi ngờ vực khi ngó chăm vào mặt đồng hồ. Chỉ có nó mới đưa ra được một con số khả dĩ tin được trong khi ngoài trời cảnh quang vẫn ngần ấy một diện mạo, sáng không sáng tối chẳng tối. Những con gà trống có thể gáy sai về một bình minh chưa tới, trong khi gà mái lại lùa bầy con vào chuồng nằm dù hoàng hôn mãi còn xa tít tắp.
Sầu Đông có sông có đồi có chùa chiền miếu mạo có lắm cây cao bóng cả bao che, những nguyên cớ tác động vào tâm tình con người, dẫu không nhiều. Dù bảo rằng lý lẽ ấy sai trật thì cũng nên khách quan để chứng nhận, người dân sống trong thị trấn Sầu Đông có vẻ đa sầu đa cảm, hiền lành, hơi khép nép, không mấy ưa chuyện tranh chấp cự cãi gây sự. Họ thích màu nâu màu xám màu hoàng thổ, những hợp sắc mà ta thường nhìn nhận chúng luôn có mặt ở nơi xông đầy khói nhang để khi bước vào lòng nghe ít nhiều sự thành kính dẫn đường. Người ở Sầu Đông ưa tổ chức những buổi cúng giỗ ở ngoài trời cho các oan hồn. Thỉnh thoảng họ ra chợ mua cá về chỉ để tìm sông hồ mà phóng sinh. Họ tin, song hành với đời sống này luôn có một cảnh giới khác cộng hưởng, trong khuất mặt. Ăn hiền ở lành, khù khờ ông trời độ có thể là châm ngôn họ cố bảo tồn. Bao triều đại đã thay bao hưng phế hiện hình bao dâu bể khuynh đảo khiến tâm tính còn người tuồng sứt mẻ chợt vẹt ít nhiều. Nam phụ lão ấu luôn nhắc chuyện cũ với bao tưởng tiếc trào dâng, người nặng lòng với Sầu Đông thì luận chuyện mà chất duy tâm lai láng phủ đầy: Trước, đêm ngủ chúng tôi vẫn để cửa mở tuyệt chẳng mất một cọng rác. Trước, mùa đông có dầm dề thì đó vốn là quy luật của mùa màng đất trời tuần hoàn xúi vậy, nay thời tiết như biết khóc giùm cho con dân thấp phận bé mồm. Sầu Đông được bọn thực dân Pháp trồng cho một rừng cây thuộc dạng cao niên hiếm quý ven đô nhằm bảo hoà môi sinh và ngăn ngừa nạn bão lụt, nay cường quyền thiếu vốn học thức đã vì đồng tiền mà đốn hạ chúng đi. Nếu trời đất chẳng sầu thảm như này, cái mới là chuyện lạ!

Cho Người Tình Lỡ Vận

Nguyễn Mạnh Trinh

Mười bốn năm mảnh đời xiêu tán
gọi ta thiên cổ cũng vô cùng
qua sông bến nước còn chạng vạng
dơi bay tâm động sợi đàn rung
Thành phố cũ còn ai đưa đón
ngựa xe đánh thức nỗi niềm riêng
góc vườn xưa thuở còn bé mọn
sầu ta cỏ áy cuộc tìm quên

Tìm Hiểu Bản Sắc: Khoảng Trống Của Thơ

Ngu Yên

Khái niệm những khoảng trống trong một bài thơ đóng góp ý nghĩa, cấu trúc, thẩm mỹ và giá trị cho bài thơ đó, được hầu hết các thi sĩ và các nhà phê bình thi ca ủng hộ. Lý do căn bản giải thích vì bản sắc thơ cô đọng, thà thiếu chữ hơn thừa, thiếu ý hơn lạc nghĩa. Vì vậy những khoảng trống cũng là những thi liệu bổ túc và tương ứng để xây dựng bài thơ.
Vượt lên lý do căn bản, những khoảng trống được đưa vào nghệ thuật sáng tác, trở thành một phần thi pháp, bao gồm trong văn phạm và phong cách. Thậm chí, làm nền tảng cho một số phong trào thơ, ví dụ như thơ Cắt Vụn (Cut-Up) do nhà thơ, nhà văn, kiêm họa sĩ Brion Gysin (1916-1986) chủ xướng. Và phong trào thơ Cụ Thể vào giữa thế kỷ 20. Trước đó, cuối thế kỷ 19, thi sĩ Guillaume Apollinaire đã đưa giá trị khoảng trống vào thơ ở mức độ thẩm mỹ như hội họa, kết hợp chữ đentrên nền trắng. Bài thơ trở thành bức tranh. (Du Hành. sáng tác 1914.)

2



Miền Vĩnh Phúc

Chuyện Ngắn Vũ Quỳnh Hương
 
Thập niên 80 Văn học Di dân Việt Nam bùng lên hiện tượng nữ, và còn kéo dài đến bây giờ. Vũ Quỳnh Huơng là một trong những gương mặt chính làm nên hiện tượng ấy. Rời quê hương sau 30 tháng 4-1975, Vũ Quỳnh Hương đột ngột khám phá định mệnh của di dân Việt trên vùng đất mới. Miền Vĩnh Phúc gói trọn những kiếp người trong phòng đợi địa ngục. Những con người đáng thương và tha hóa đến phút cuối cùng. 
Xuất hiện lần đầu năm 1986 trên tập san Văn Học của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, trung thiên truyện Miền Vĩnh Phúc ngay lập tức được xem là một hạt trân châu lấp lánh trong Văn học Di dân Việt Nam ― của cả Văn học Quốc nội ―  vì góc nhìn quan sát mà Vũ Quỳnh Hương đem đến, không thể tìm thấy tại quê nhà. Dụng văn mô tả hoạt cảnh sống động, Vũ Quỳnh Hương đạt đến sự tương phản của đời sống quý giá so với phòng đợi chết âm u. Miền Vĩnh Phúc chưa hề in trong một tuyển tập hay một tập truyện nào.  [Trần Vũ]

Kinh nghiệm viết văn: Viết và lách

Nguyễn Hưng Quốc

Lâu nay nghĩ đến chuyện viết lách là người ta nghĩ ngay đến tình trạng vừa viết vừa lách dưới chế độ cộng sản, ở đó, giới cầm bút, nói như Nguyễn Minh Châu, trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” đăng trên báo Văn Nghệ tại Hà Nội số 49 & 50 (5-12-1987), “muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh”, “mỗi khi ngồi trước trang giấy là cùng một lúc phải cầm hai cây bút: một cây bút để viết cho người đọc bình thường, cho đời, một cây bút khác viết cho đạo, lo việc che chắn, viết cho lãnh đạo văn nghệ đọc.”
Nghĩ đến chuyện lách trong viết lách, chúng ta nghĩ ngay đến sự thất bại của giới cầm bút và của văn học nói chung. Của giới cầm bút: không giữ được sĩ khí. Hay nói như Nguyễn Minh Châu, trở thành hèn. Cũng trong bài viết vừa dẫn, Nguyễn Minh Châu tự sỉ vả mình và cả giới mình: “Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn.”
Cái hèn ấy không trừ ai cả, kể cả những người vốn được xem là những cây thông sừng sững trên văn đàn. Như “một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: ‘Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!’, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng.”

Làm Gì Với Thơ Hay

Ngu Yên

Con khỉ
Sau khi làm trò
Thích nghe vỗ tay
Huống chi người

Mỗi khi
Làm được thơ hay
Ngậm ngùi không biết khoe ai
Khoe với nắng

Hương Thu

Luân Hoán

mùa thu không đến tình cờ
lòng như vẫn gặp bất ngờ lạ chưa
bắt đầu từ một cơn mưa ?
bắt đầu từ ngọn gió đưa hững hờ ?

tôi đâu nhớ chắc hôm nào
mùa thu đã bước chân vào phố tôi
sáng ra mở cửa ngẩn người
một chiếc lá rụng bùi ngùi bay qua

Chiều Thứ Sáu Câu Cá Ở Pacifica

Chuyện Ngắn Lê Thị Huệ

Mười hai giờ rưỡi thứ Sáu Mềnh shop ở Sierra Monte mua món quà cho Elena thư ký mới vào việc. Mềnh soăn soắt ghé hiệu nến thơm Flora. Chọn cặp nến mùi nguyệt quế. Biến nhanh ra khỏi hai cửa ô kiếng. Ghé ngang trường cũ chào tên đàn ông đang dạy psy. Kiếm xa lộ ra biển Paficica dang nắng tháng mười thu Cali vàng ương ương.
Đời thế thời sự sướng cũng đã chín thù lu trái đu đủ vàng.
Đờn bà tuổi năm mươi lái xe tay số. Tay số, không phải tự động nhá. Lướt lụa xa lộ 280 là cao bồi Cali. Ở Mỹ kiếm được mấy chị đàn bà America, đừng nói các chị Việt như Mềnh. Huh. Cũng hơi bị hiếm đấy. Tám mươi lăm mai tức 137/km giờ. Dọt dèo qua mặt nhóc con gái Asian chỉ biết lái Camry Lexus Mecedes Corolla chầm chậm cho đúng luật giao thông xa lô. Rờ rờ nản kể gì. Mềnh ào ào lái mấy chục dặm ra biển vắng. Một mình ngồi ngắm hoàng hôn được hông. Biết vui cái sự thanh thản dạo bộ một mình an toàn trong bóng hoàng hôn ở vùng Vịnh. Không chồng không con vướng cẳng khòeo chân cạnh hông.

50 / 50

Hoàng Chính

Thằng nhỏ quen ông già từ lúc nó bắt đầu đưa báo trên tuyến đường ngang qua khu nhà trọ cao niên.
“Ông già đi đâu thế?” Nó làm quen trước.
Ông già nheo mắt nhìn cái bóng lờ mờ. Ông nâng mắt kính lên nhìn cho rõ. Vẫn mờ. Ông tháo kính ra. Bàn tay run ngoằn ngoèo những đường gân loay hoay tìm cái gì để lau. Thằng bé nhanh nhẹn rút trong túi ra mảnh giấy lau tay đưa cho ông già.
“Giấy gì đấy?”
“Giấy chùi tay trong McDonald’s.”
“Mày giầu thế.”
“Nghèo mạt.”
“Nghèo sao có tiền đi McDonald’s?”
“Cháu đi đưa báo quảng cáo. Ghé ngang lấy mớ giấy chùi tay xài dần.”
Smart kid.” Ông già vừa lau mắt kính vào miếng giấy vừa gật gù. “Nhưng đừng làm vậy.”
Thằng bé ngó ông già, rồi nhìn theo một con sóc loay hoay cạnh gốc cây bạch dương sần sùi. “Ông già đi đâu thế?” Nó hỏi.
Ông già đeo cặp kính lên mắt. Cái mặt gầy nhom của thằng bé nhập nhòe. Mái tóc nâu bẩn, quăn và rối như tổ chim làm vội trong công viên.

Trắng Tay

Nguyễn Đức Lập

Bạn bè một lũ bốn phương
Vui sao bỗng chốc bên đường gặp nhau
Cơm hàng, cháo chợ mời chào
Đập bàn sống lại thuở hào khí xưa
Rượu tràn ly cứ rót bừa
Kề vai vỗ vế say sưa nói cười

Ong Và Người

Bắc Phong

Mikkail Zoshchenko
Bắc Phong chuyển ngữ từ bản tiếng Anh Bees and People dịch bởi Maria Gordon and Hugh McLean.

Câu chuyện xảy ra sau chuyến viếng thăm nông xã của một gã lính hồng quân. Để làm quà cho thân quyến, gã đem theo một lọ mật. Và mọi người đâm ra thích mật đến nỗi họ quyết định là nông xã phải có một tổ hợp nuôi ong lấy mật riêng.
Nhưng chẳng có ai ở đấy đang nuôi ong cả. Thành ra các xã viên phải bắt đầu từ con số không. Nghĩa là họ sẽ phải làm tổ rồi đi dọn nhà cho mấy đám ong rừng. Đến lúc bàn tới chuyện thời gian đòi hỏi để hoàn tất công việc thì họ mất hết cả nhiệt tình. Lâu quá. “Chẳng bao giờ xong việc,” họ bàn tán. “Phải chạy đây chạy đó, rồi cái điều mình thấy đầu tiên là mùa Đông. Muốn nếm mật chắc phải đợi đến sang năm. Trong khi mình thì lại cần nó ngay bây giờ.”
May thay trong đám xã viên lại có lão Ivan Panfilich, người đã từng nuôi ong lúc còn trẻ. Trông lão bây giờ vẫn còn rắn chắc dù tuổi thì đã bẩy mươi hai. Lão Panfilich phát biểu. “Nếu chúng ta muốn uống trà với mật ong năm nay, thì một người nào đó phải đi tìm nơi người ta nuôi ong rồi mua chúng nó về.” Đám xã viên đồng ý ngay. “Phải đấy, nông xã mình đâu có thiếu tiền. Mà mình phải mua ong trong lúc chúng đang làm tổ cho mật kìa. Vì nếu mình khuân cái đám ong rừng về, mật của nó nhiều khi lại chẳng thơm tho gì.”

Bài thơ 4000


Phan Ni Tấn 

tặng Phạm Ngọc Dung và con tàu Trường Xuân

Tôi có nghe lịch sử kể về một con tàu
Con tàu ấy đã ra khơi chở theo 4000 tiếng khóc
Biển mở cửa xẻ thành một vết thương rỉ máu dẫn 4000 băng qua biển động
Hàng trang là nhân sinh với hai bàn tay trắng mắt trắng hơi thở trắng
Mất trắng

Con tàu ấy đã ra khơi
Tiếng máy cũ vẫn còn sức kéo
Kéo 4000 lìa xa đất mẹ
Mẹ đứng trên bờ, bờ như mất cảng
Báo con sông cuối tháng này sóng sẽ động mạnh

Bao La Say

Hoàng Xuân Sơn

cho một miền say, lưỡng cực

Dậy. vùng tôi. như sao sa
mặt lên chín đỏ sơn hà ngũ cung
đêm qua say giữa cánh đồng
phì nhiêu em có tôi mong đợi về
một giấc ngời ôm lú mê
một nhan vóc. một ngoạn kề thiết thương
miên man tôi một đóa hường

Nhà Nằm Trong Hẻm

Song Thao

1.
Hẻm nằm trên đường Công lý. Tiếng là hẻm nhưng con hẻm này được tráng nhựa phẳng phiu, rộng dư sức cho hai chiếc xe nhỏ cỡ xe Simca 1000 của Hoàng đi ngược chiều nhau một cách thoải mái. Nhưng Hoàng vẫn đậu xe ngoài đường Công Lý. Cho chắc ăn. Cười. Hoàng khéo lo xa. Căn nhà hai tầng lầu nằm chung với những căn nhà lầu thẳng tắp dọc theo hai bên hẻm, nếu không phải là tay chơi cỡ Hoàng, thì chẳng ai biết đó là một ổ điếm. Gọi là ổ điếm nghe như có điều xúc phạm tới nơi ăn chơi bề thế và sang trọng này. Hoàng gọi đây là nhà chị Marie.
Nhà đúc bê tông, cửa sắt kín mít, lưới chống lựu đạn giăng thoai thoải từ trên lầu xuống hàng rào gạch có những thanh sắt nhọn tua tủa chĩa lên trời như một bàn chông. Trông như nhà của một ông lớn nào đó. Mà quả thực cả con hẻm này hầu như toàn là nhà các ông lớn không. Bốn tên đực áo bỏ trong quần, giày da bóng loáng, tụm nhau trước cửa. Hoàng giơ tay bấm chuông. Hai tiếng dài, ba tiếng ngắn. Nghỉ vài giây. Hai tiếng dài nữa. Đúng mật hiệu. Một đôi mắt hiện ra nơi chiếc lỗ vuông bằng bao thuốc lá vừa được kéo cạch ra. Nhận ra đúng người quen, cửa mở. Một nụ cười và một câu trách nhẹ.
"Chào các anh. Các anh kéo nhau tới như đi hành quân không bằng. Lần sau các anh nhớ tách ra, hai người vào một lần thôi. Chịu khó giúp em một chút!Cẩn thận vẫn hơn!"

Một Thời Qua Chợ Miêu Bông

Luân Hoán

Chợ Miêu Bông nằm cách quê nội tôi một dòng sông nhỏ. Đây là một ngôi chợ ở vùng quê, nhưng có chút hơi thở thị thành, nhờ không cách xa thành phố Đà Nẵng bao nhiêu, và nhờ những chuyến xe đò ngược, xuôi vẫn thường dừng ngay trước chợ. Vào đầu thập niên năm mươi, tôi có hai người bà con, thím Diên và bác Hội Du, buôn bán ở ngôi chợ này.
Chợ đông mỗi ngày một buổi, từ tinh mơ kéo dài đến khoảng hai giờ chiều. Trong thời gian tôi sống ở quê nội, nhiều lúc tôi đã theo những người con của thím và bác tôi lang thang vào ngôi chợ. Thằng Tiên, anh Thoại, anh Lữ chiều nào cũng qua giúp hai bà mẹ thu cất hàng vào khi chợ sắp tan. Trong những lần làm cái đuôi như thế, tôi có dịp ngắm và nghe những sinh hoạt náo nhiệt của chợ búa. Dĩ nhiên sự hiện diện của tôi không phải lúc nào cũng rơi vào buổi chợ tan.
Hình ảnh, âm thanh có thể khác nhau chút ít, tùy thời điểm.Nhưng đặc điểm chung chung của một ngôi chợ làng quê, tôi nghĩ ở đâu cũng bao gồm cảnh hỗn tạp, ồn ào, luộm thuộm, bẩn thỉu, mùi hôi chen với mùi thơm...Riêng với ngôi chợ Miêu Bông, tuy không phải là ngôi chợ thứ nhất tôi được biết, được gặp, nhưng đây chính là ngôi chợ tôi lui tới nhiều nhất, quan sát nghe nhìn được nhiều nhất, và có thể dễ dàng lượm ra một vài kỷ niệm xinh xinh. Với chợ Miêu Bông, tôi không có cái ngơ ngáo như ở chợ Quán Rường, chợ Được...Tôi không có cái cảm giác đi tìm một bóng hồng như ở chợ Đông Ba, chợ Sông Vệ, chợ Tam Kỳ... Tôi không có những giây phút trống rỗng, đi tìm một cốc cà phê như ở chợ Quảng Ngãi, chợ Quán Lác, chợ Tăng Nhơn Phú... Tôi không có cái nhàn du, đi ngắm mọi người mua sắm như ở chợ Bến Thành, chợ Tăng Bạt Hổ...Tôi không có cái phút đi chọn mua hàng hóa, thức ăn như ở chợ Cồn, Chợ Vườn Hoa, chợ Hàn, chợ Tân Định...Tôi không có cái nao nao đứng chụp ảnh như ở chợ Hội An, chợ Vĩnh Điện, chợ Búng...Biết bao nhiêu là chợ tôi đã được ghé qua, nhưng đậu kín nhất trong lòng tôi vẫn là chợ Miêu Bông.

Lẫn Lộn

Ngu Yên

Tôi lẫn lộn giữa tình yêu và tình ái
giữa em và các thiếu nữ diễm kiều
Tôi lộn xộn giữa thương và nhớ
giữa môi hôn và sờ mó trái tim

Đời u mê, kịch cợm và chán ngắt
nếu không ái tình
nếu không có em

Vườn Ta Còn Xanh Cỏ Hoa

Luân Hoán

thú vị với bài thơ
cùng vườn cây hoa trái
nhưng viết hơi ỡm ờ
có chăng dễ không phải ?

tự nhiên thấy thiếu nợ
cùng trái ớt quả cà
trái khổ-qua trái bí
thêm hèn mọn chúng ra

hỡi ơi hoa với trái
cho ta vui từng giờ
vun đất cùng tưới nước
chưa được đẹp dòng thơ !

Sống Và Viết Như Những Người Lưu Vong

 Nguyễn Hưng Quốc

Lưu vong, theo tôi, bao giờ cũng được mở đầu bằng một bi kịch chính trị và kết thúc bằng một bi kịch văn hoá. Càng ngày tôi càng thấm thía một điều: sống và viết ở hải ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại. Khi một nhà văn rời quê hương ra định cư và sáng tác ở nước ngoài, hắn không phải chỉ thay đổi một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi hẳn một thế giới với những mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, để rồi, một cách tự giác hay không, dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm, từ đó, cách viết và cuối cùng, không chóng thì chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách là một nhà văn nữa.
Trước hết, trong quan hệ với đất nước, với người đang sống ở hải ngoại, quê hương chỉ còn là một nỗi nhớ mà nỗi nhớ nào thì cũng có khả năng biến mọi thứ thành quá khứ và mọi hình ảnh đều trở thành lấp lánh đẹp. Hơn nữa, nỗi nhớ nào, khi dẫn con người đi ngược chiều thời gian, cũng đều cắm neo vào một không gian nhất định: nhớ một thời, thực ra, bao giờ cũng là nhớ một nơi. Trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, chẳng hạn, không có nỗi nhớ nào lại không gắn liền với cảnh vật, với phong thổ, với các yếu tố địa lý. Trong tập Du côté de chez Swann của Marcel Proust, mặc dù nói là đi tìm thời gian đã mất (A la recherche du temps perdu), nhân vật chính chỉ loay hoay tìm kiếm mãi hình ảnh một cái làng, làng Combray. Bởi vậy, nghĩ cho cùng, văn học lưu vong nào cũng ít nhiều mang tính chất ‘miệt vườn’. Giũ bỏ tính chất ‘miệt vườn’ ấy bao giờ cũng là một thách đố lớn cần nhiều quyết tâm lớn và tài năng lớn.

Khúc Quanh Đời

Bắc Phong

bạn tôi ly dị vợ
sống lặng lẽ nhiều năm
hôm trước rủ tôi ra Starbucks
ngồi uống cà phê
tôi vừa mới bắt tay
chưa kịp cởi áo khoác
bạn đã nói đang tương tư
tôi cười bảo thế à
bạn nói: thật
nàng là người nhan sắc